Mục lục bài viết
1. Quy định về nguyên tắc đòi nợ
Tình trạng việc người thân quen vay số tiền lớn mà không kí kết giấy tờ, biên nhận là một hiện thực phổ biến trong xã hội. Tuy nhiên, không ít trường hợp người thân quen, dựa vào sự không có giấy tờ, biên nhận, từ chối trả lại số tiền đã vay, gây thiệt thòi cho người cho vay. Người này thường không thể đòi nợ một cách hợp pháp vì thiếu chứng cứ chính thức. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để yêu cầu trả nợ mà không vi phạm quy định pháp luật và tránh bị buộc tội cướp đoạt tài sản, đặt ra những thách thức không nhỏ cho những người đang đối mặt với tình huống này trong cuộc sống hiện nay.
Hợp đồng vay tài sản tạo ra một liên kết giữa bên cho vay và bên vay. Bên vay, khi đã nhận được số tiền vay, cần hoàn trả đúng hạn. Trong thực tế, khi tổ chức tài chính không thể thu hồi nợ, một số tổ chức đã thực hiện cuộc gọi đến người thân của người vay để tạo áp lực, thậm chí đòi nợ thay mặt người vay, hành động này là vi phạm quy định pháp luật.
Theo quy định của Khoản 7 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2016/TT-NHNN, các tổ chức tài chính cần phải ban hành quy định nội bộ liên quan đến việc cho vay và thu nợ. Cụ thể, họ phải tuân thủ những nguyên tắc đòi nợ nhất định như sau:
- Áp dụng biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ phù hợp với đặc điểm cụ thể của khách hàng và quy định của pháp luật.
- Không sử dụng đe dọa đối với khách hàng.
- Hạn chế số lần nhắc nợ tối đa là 05 lần mỗi ngày.
- Thực hiện hình thức nhắc nợ và thời gian nhắc nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng phải nằm trong khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 21 giờ tối.
- Tổ chức tài chính không được nhắc nợ, đòi nợ hoặc gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức hoặc cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ cho công ty tài chính, trừ khi có yêu cầu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, từ góc độ pháp lý, khi hai bên có quan hệ vay nợ lẫn nhau, việc giải quyết nên diễn ra thông qua thỏa thuận hoặc qua hệ thống tòa án thay vì thực hiện hành vi đơn phương lấy tài sản của người vay để thanh toán nợ.
Theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trong trường hợp hai bên có quan hệ vay nợ lẫn nhau và không đạt được thỏa thuận về thời gian, thời hạn trả nợ, cũng như số nợ và lãi phải trả, bên cho vay có quyền yêu cầu tòa án can thiệp để giải quyết tranh chấp. Điều này nhằm đảm bảo công bằng và tuân thủ quy định của pháp luật trong quá trình xử lý các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ vay nợ giữa hai bên.
Nhằm đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, chủ nợ không được thực hiện các hành vi sau đây: sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, tuyên truyền đe dọa tinh thần hoặc bắt giữ người vay một cách trái pháp luật. Trong trường hợp đã đến hạn trả nợ mà bên vay vẫn chưa thực hiện, bên cho vay có quyền khởi kiện tới tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Hơn nữa, nếu người vay sử dụng các chiêu trò gian dối và cố ý chiếm đoạt số tiền vay, bên cho vay có thể gửi đơn tố giác đến cơ quan công an để tiến hành điều tra. Theo Điều 30 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được thực hiện đồng thời với việc xử lý vụ án hình sự. Tòa án sẽ giải quyết yêu cầu đòi nợ của bên cho vay trong quá trình xử lý hành vi chiếm đoạt tài sản của người vay.
2. Người thu hồi nợ có được gọi cho người thân của người vay để nhắc nợ hay không?
Điều 463 của Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: Hợp đồng vay tài sản là một thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay có trách nhiệm hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại, đúng số lượng và chất lượng. Chỉ khi có thoả thuận hoặc quy định của pháp luật, bên vay mới phải trả lãi.
Theo quy định này, quan hệ dân sự trong việc vay tài sản là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên, và khi đến hạn trả, trách nhiệm trả nợ chỉ thuộc về bên vay. Người thân của bên vay chỉ phải chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp họ đã cam kết bảo lãnh cho khoản vay, nhưng người bảo lãnh lại không thực hiện đúng trách nhiệm trả nợ.
Do đó, nếu đến hạn mà bên vay không thực hiện trả nợ và không có cam kết bảo lãnh, chủ nợ không có quyền đòi tiền hoặc tài sản của người thân của bên vay.
3. Nếu nhân viên thu hồi nợ làm phiền nhiều lần thì bị xử lý thế nào?
Theo khoản 3 của Điều 102 trong Nghị định 15/2020/NĐ-CP, các hành vi sau đây sẽ bị xử phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng:
- Truy nhập, sử dụng, tiết lộ, làm gián đoạn, sửa đổi, hoặc phá hoại trái phép thông tin và hệ thống thông tin.
- Không thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn việc truy nhập thông tin hoặc loại bỏ thông tin trái pháp luật theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi truyền đưa hoặc cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số.
- Không thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xác định danh sách chủ sở hữu thuê chỗ lưu trữ thông tin số.
- Không bảo đảm bí mật thông tin của tổ chức, cá nhân thuê chỗ lưu trữ thông tin số, trừ các trường hợp cung cấp theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Không thực hiện các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi, hoặc phá hủy khi thu thập, xử lý, và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng.
- Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không có sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật.
- Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
- Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bị cấm.
- Ngăn chặn trái pháp luật việc truyền tải thông tin trên mạng, can thiệp, truy nhập, gây nguy hại, xóa, thay đổi, sao chép và làm sai lệch thông tin trên mạng.
- Không tiến hành theo dõi, giám sát thông tin số của tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Không hợp tác, phối hợp điều tra các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình truyền đưa hoặc lưu trữ thông tin số của tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa trên mạng dưới bất kỳ hình thức nào.
- Cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa trên mạng.
- Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật.
- Thu giữ thư, điện báo, điện tín trái pháp luật.
Theo quy định, nếu nhân viên thu hồi nợ điện thoại làm phiền nhiều lần, họ sẽ chịu mức xử phạt hành chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Bài viết liên quan: Hành vi đòi nợ, đe dọa, khủng bố người thân của người vay tiền có bị xử lý hình sự?
Trên đây là nội dung bài viết về vấn đề: Người thu hồi nợ có được gọi cho người thân của người vay để nhắc nợ? Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!