1. Phải làm sao khi hai vợ chồng đều muốn được nuôi con sau khi ly hôn ?

Kính gửi: văn phòng luật minh khuê. Tôi là NT Hằng, hiện đang làm việc tại hà nội. Tôi gửi mail này xin kính nhờ văn phòng tư vấn giúp tôi một việc như sau:hiện anh trai tôi đang trong thời gian xử lý việc ly hôn.
Về vấn đề tài sản không có tranh chấp gì song về vấn đề con chung, hai anh chị đều có ý muốnđược nuôi con. Con anh chị sinh tháng 8 năm 2013, đến nay được khoảng 3 tuổi rưỡi, cháu hiện đang sống với gia đình bên nội tại bắc ninh. Hiện tại anh trai tôi là công nhân tại một công ty tại bắc ninh, lương hàng tháng khoảng 6-7 triệu đồng.
Vợ anh quê tại bắc giang, hiện là công nhân tại Công ty Samsung bắc ninh, lương cũng khoảng 6-8 triệu/ tháng. Sau khi anh chị ly thân, cháu sống với bố và ông bà nội, hiện đang theo học tạitrường mẫu giáo của thôn còn vợ anh thuê nhà sống với bạn. Khoảng 1 tháng trước, chị đã đệ đơn ly hôn tới tòa án huyện, anh trai tôicũng đã gửi văn bản ý kiến của anh về vấn đề nuôi con chung tới tòa (tôi đã đính kèm văn bản ý kiến bên dưới). Gia đình chúng tôi rất mong nhận được sự tư vấn của văn phòng về khả năng gia đình tôi được nuôi cháu và các văn bản thủ tục mà anh trai tôi cùng gia đình cần chuẩn bị ?
Tôi xin chân thành cảm ơn!

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân về ly hôn và quyền nuôi con, gọi: 1900.6162

Luật sư tư vấn:

Căn cứ theo điều 81, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Căn cứ theo quy định trên thì con trên 36 tháng tuổi (trên 3 tuổi) nếu vợ chồng không thoả thuận được với nhau, có tranh chấp về quyền nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho người trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.

Vậy muốn giành quyền nuôi con, anh trai của bạn phải chứng minh mình có điều kiện nuôi con hơn vợ của anh. Những điều kiện cần chứng minh là về vật chất và tinh thần như sau:

1. Điều kiện về kinh tế, vật chất:

Anh trai của bạn phải chứng minh được mình có đầy đủ các điều kiện về vật chất như: Nơi ăn ở, sinh hoạt hàng ngày, điều kiện học tập của con...các yếu tố này sẽ được xét trên điều kiện về chỗ ở (Có chỗ ở ổn định), thu nhập, công việc ổn định...Anh trai bạn phải có điều kiện về tài chính hơn so với vợ, mức thu nhập, nơi cư trú của bạn phải đủ để đảm bảo điều kiện về nuôi dưỡng, học tập và vui chơi cho cháu bé.

Để chứng minh được vấn đề này bạn cần cung cấp cho Toà án những giấy tờ như: hợp đồng lao động, bảng lương, giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu đất, sở hữu nhà (sổ đỏ), nơi học tập của cháu...

2. Điều kiện về tinh thần:

Các điều kiện về tinh thần bao gồm: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi, giải trí, nhân cách đạo đức của cha mẹ. Do đó, anh trai bạn phải chứng minh được mình có đủ thời gian để chăm sóc, dạy dỗ, có thời gian cho bé vui chơi, giải trí. Và từ trước tới giờ anh trai bạn là người luôn quan tâm, yêu thương con, là người có đầy đủ đạo đức để nuôi dạy con, không có hành vi bạo lực gia đình...

Theo như thông tin bạn cung cấp thì cháu bé được khoảng 3 tuổi rưỡi, cháu hiện đang sống với gia đình bên nội tại Bắc Ninh. Hiện tại anh trai của bạn là công nhân tại một công ty tại Bắc Ninh, lương hàng tháng khoảng 6-7 triệu đồng. Vợ của anh quê tại Bắc Giang, hiện là công nhân tại công ty samsung Bắc Ninh, lương cũng khoảng 6-8 triệu/ tháng. Sau khi anh chị ly thân, cháu bé sống với bố và ông bà nội, hiện đang theo học tại trường mẫu giáo của thôn còn vợ của anh thuê nhà sống với bạn.

Như vậy vợ chồng anh trai của bạn có công việc và mức thu nhập gần tương đương nhau nhưng anh trai của bạn có nhà ở ổn định (vì ở với ông bà nội, hiện tại cháu bé cũng đang ở với anh và đang đi học mẫu giáo ở trường trong thôn) còn vợ anh trai bạn phải đi thuê nhà nên rất khó để đảm bảo về nơi ở và điều kiện học tập cho cháu bé.

Xét trên những điều kiện nêu trên rất có thể khi Toà án xem xét điều kiện của các bên Toà án sẽ giao quyền nuôi con cho anh trai của bạn.

>>> Bạn có thể tham khảo video của Công ty Luật Minh Khuê về quyền nuôi con sau khi ly hôn:

Youtube video

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!

2. Khi nào sẽ bị hạn chế quyền thăm con sau ly hôn ?

Kính chào quý công ty. Vợ chồng tôi mới ly hôn.Tòa án tuyên con sẽ do mẹ chăm sóc. Bố cháu thì thường xuyên say rượu, trong quá trình sống chung hay có hành vi đánh đập vợ con. Vì vậy tôi mới xin ly hôn. Giờ bố cháu thường xuyên tới nhà của hai mẹ con trong tình trạng say rượu, chửi bới, tiếp tục đánh tôi để đòi con về.
Vậy tôi muốn yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chồng cũ tôi thì làm như thế nào?

>> Luật sư tư vấn trực tuyến qua điện thoại gọi:1900.6162

Trả lời:

Theo Điều 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ khi không trực tiếp nuôi con khi ly hôn:

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

Bên cạnh đó, cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 trích dẫn ở trên; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên được quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình, trong các trường hợp sau đây:

"a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

b) Phá tán tài sản của con;

c) Có lối sống đồi trụy;

d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội."

Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.

Theo đó, người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, bao gồm:

- Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

- Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.

- Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định về hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì có quyền đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về gia đinh, về trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

Như vậy, nếu chồng cũ của Quý khách thường xuyên uống rượu, đánh người khác, có những hành vi vi phạm quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình thì Quý khách có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của thăm nom, chăm sóc con của chồng cũ của Quý khách. Tuy nhiên, nếu bị Tòa án hạn chế quyền đối với con thì chồng cũ của Quý khách vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Ngoài ra, hành vi say rượu, chửi bới và đánh Quý khách thì tùy thuộc vào hành vi, mức độ tội phạm có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 13, Điều 134 Bộ luật hình sự.

"Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác.

Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm....."

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

>> Tham khảo bài viết liên quan: Quy định mới về mức tiền trợ cấp nuôi con khi bố mẹ ly hôn?

3. Điều kiện để tòa án phán quyết cho nuôi con sau khi ly hôn ?

Thưa luật sư, Em là Dung, xin giải đáp giúp em: Gia đình em có 2 bé gái. Bé lớn năm nay 28 tháng. Bé sinh ngày 24/01/2011. Bé thứ 2 được 8 tháng. Bé sinh ngày 29/09/2012.
Do 2 vợ chồng không hợp nhau nên muốn ly hôn. Em rất muốn nhận chăm sóc cả 2 cháu thì pháp luật có cho phép không ạ. Em cũng đi làm và lương hàng tháng là 6 triệu VNĐ.
Rất mong Anh(Chị) hồi đáp sớm cho em hiểu. Em xin chân thành cảm ơn! Chúc Anh(Chị) một ngày vui vẻ!
Người gửi: V.T Dung
Youtube video

Trả lời:

Ý kiến thứ nhất:

Chào chị! Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi về chuyên mục hỏi đáp của chúng tôi, câu hỏi của chị được chúng tôi trả lời như sau:

Theo quy định Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con thì có thể yêu cầu Tòa án cho được nuôi con. Trong trường hợp con dưới 36 tháng tuổi thì về nguyên tắc sẽ giao cho người mẹ là người được quyền trực tiếp nuôi con. Bên cạnh đó Tòa án còn xem xét đến các yếu tố sau đây để đưa ra quyết định:

Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… mà mỗi bên dành cho con, yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của chan mẹ;

Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình độ học vấn… của cha mẹ.

Như vậy, chị hoàn toàn có quyền nhận nuôi cả hai con của mình.

Ý kiến thứ hai:

Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi đến cho công ty chúng tôi, tôi sẽ giải đáp thắc mắc của chị như sau:

Cơ sở pháp lý: Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

 

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”.

Nếu đứa con đầu tiên của chị tính đến thời điểm xét xử chưa đầy 3 tuổi thì chị sẽ được nuôi cháu và đứa con thứ hai sau khi sinh chị cũng sẽ được nuôi. Tất nhiên, chị cũng cần chứng minh với Tòa án khả năng của mình về việc có thể nuôi dưỡng và chăm sóc cả hai con như: tình hình sức khỏe, điều kiện về chỗ ở, việc làm, thu nhập hàng tháng, điều kiện chăm sóc, giáo dục…

Như vậy, cả hai con của chị (Bé lớn năm nay 28 tháng. Bé sinh ngày 24/01/2011. Bé thứ 2 được 8 tháng. Bé sinh ngày 29/09/2012) đều dưới 3 tuổi nên chị sẽ được ưu tiên nuôi con. Bên cạnh đó, chị cần chứng minh với Tòa án khả năng của mình có thể nuôi dưỡng con tốt.

Ý kiến thứ ba:

Chào chị Dung, cảm ơn chị đã gửi câu hỏi về mục hỏi đáp của công ty, câu hỏi của chị được trả lời như sau:

Căn cứ pháp lý áp dụng trong trường hợp này:

+) Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Thứ nhất, trong trường hợp này của bạn, nếu bạn yêu cầu xin ly hôn tại tòa thì có thể được chấp nhận còn nếu người yêu cầu là chồng bạn thì không. Bởi về nguyên tắc, trong thời gian vợ nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không được quyền yêu cầu xin ly hôn.

Thứ hai, việc giành quyền nuôi con: “Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai”. Như vậy về nguyên tắc, việc nuôi con do vợ chồng bạn thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì sẽ do Tòa án quyết định căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau.

Trong trường hợp cụ thể này của bạn, nếu bạn không thỏa thuận được với chồng bạn về quyền nuôi con, thì bạn có ưu thế hơn trong việc giành quyền nuôi con bởi: Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác.

Tuy nhiên, những vấn đề trên đây chỉ đơn thuần về mặt pháp lý, còn việc quyết định để phù hợp với hạnh phúc gia đình và tương lai của các con bạn thì bạn nên suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng.

 

4. Điều kiện để được giao con cho bố nuôi khi ly hôn không ?

Chào luật Minh Khuê. Cho em hỏi em hỏi em và chồng muốn được ly hôn, 2 vợ chồng đã có một con khoảng gần 2 tuổi. Hiện giờ nếu ra tòa thì tòa sẽ cho con theo bố hay theo mẹ ? Cảm ơn luật sư.

Chồng không kí đơn, vợ có được ly hôn hay không?

Tư vấn đơn phương ly hôn, gọi:1900.6162

Trả lời:

Theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội:

"3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con."

Do đó bạn được quyền nuôi con nếu vợ chồng bạn không có thỏa thuận khác hoặc bạn bị hạn chế về điều kiện để con phát triển về mọi mặt của con.

Khi xem xét ai sẽ là người có quyền nuôi con, Tòa án sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau với mục đích tìm được người có thể đáp ứng tối đa yêu cầu cho sự phát triển của đứa trẻ. Nhìn chung Tòa án sẽ dựa trên 3 yêu tố sau:

+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;

+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.

+ Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng với con từ đủ 7 tuổi trở lên).
Nếu bạn thực sự yêu thương con mình và có đủ khả năng chứng minh trước tòa rằng mình có thể đem lại cho con mình cuộc sống tốt đẹp hơn thì việc bạn giành được quyền nuôi con là hoàn toàn có thể.

Những điều cần lưu ý: Điều kiện trực tiếp chăm sóc trông nom... như: Điều kiện về nhà ở, về chố học...

5. Có thể ủy quyền ly hôn hay không ?

Xin chào luật sư! Tôi có một số thắc mắc như sau về vấn đề ly hôn: Nếu đã ly thân hơn 10 năm và muốn ly hôn đơn phương nhưng không có mặt ở địa phương thì có thể ủy quyền cho luật sư được không? Và nếu trường hợp vợ hoặc chồng không hoặc không thể ra tòa thì sẽ giải quyết thế nào?
Rất mong luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi. Cám ơn luật sư.

>> Luật sư tư vấn hôn nhân gia đình: 1900.6162

Trả lời:

Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

Điều 85. Người đại diện

1. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ.

3. Tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền.

Trường hợp nhiều người lao động có cùng yêu cầu đối với người sử dụng lao động, trong cùng một doanh nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động thay mặt họ khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án.

4. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.

Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.

Như vậy, căn cứ theo quy định pháp luật trên thì bạn không được ủy quyền khi ly hôn.

- Khoản 34 Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi quy định:

"34. Điều 199 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 199. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

1. Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Toà án thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn phiên toà.

2. Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên toà, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì xử lý như sau:

a) Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;

b) Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà thì Toà án tiến hành xét xử vắng mặt họ;

c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;

d) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.”

Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì bạn có quyền vắng mặt tại phiên tòa nhưng phải có đơn xin xét xử vắng mặt.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận Tư vấn Pháp luật Hôn nhân - Công ty luật Min Khuê