>> Luật sư tư vấn pháp luật đất đai, gọi:1900.6162

 

Trả lời:

1. Các nguyên tắc cơ bản của ngành Luật Đất đai

Luật đất đai năm 2013 số 45/2013/QH13 của Quốc hội áp dụng các nguyên tắc cơ bản sau:

- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. 

- Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật.

- Ưu tiên bảo vệ và phát triển quỹ đất nông nghiệp.

- Sử dụng đất đai hợp lý và tiết kiệm.

- Thường xuyên cải tạo và bồi bổ đất đai.

Như vậy, pháp luật đất đai quy định một trong các nguyên tắc cơ bản của ngành Luật đất đai là Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.

 

2. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai

Trong lĩnh vực đất đai, vấn đề sở hữu đóng vai trò trung tâm, giữ vị trí hạt nhân chi phối toàn bộ quá trình quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta. Chế định sở hữu đất đai là một chế định cơ bản không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật đất đai. Việc xác lập đất đai thuộc hình thức sở hữu nào phải căn cứ trên những cơ sở lý luận và thực tiễn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mang tính đặc thù của mỗi quốc gia. 

Điều 4 Luật Đất đai 2013 quy định về Sở hữu đất đai như sau: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 2013.

Ở nước ta, khái niệm quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội năm 2011, Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 và năm 2001, Luật đất đai 2003 và Luật đất đai năm 2013 nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội hoá đất đai. Theo đó, Nhà nước không trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất mà giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài (gọi chung là người sử dụng dụng đất); công nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; đồng thời, bằng pháp luật, Nhà nước cho phép người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất...

 

2.1. Khái niệm về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai

Trước hết, quyền sở hữu được hiểu là quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt đối với tà sản của mình. Quyền sở hữu là phạm trù pháp lí phản ánh các quan hệ sở hữu trong chế độ sở hữu nhất định. 

Toàn bộ quan hệ sở hữu trong xã hội hợp thành chế độ sở hữu - là nền tảng của xã hội tương ứng với mỗi phương thức sản xuất. Chế độ sở hữu không chỉ là một yếu tố cơ bản xác lập nền tảng của một chế độ xã hội mà còn luôn luôn thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó. Nếu chế độ sở hữu được thiết lập phù hợp với các quy luật khách quan thì nó sẽ tại môi trường tốt, thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển; ngược lại nó sẽ kìm hãm nền kinh tế. Vì vậy, không thể thiết lập chế độ sở hữu một cách chủ quan, nóng vội mà phải tuỳ thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.

 

2.2. Quan niệm sở hữu toàn dân về đất đai

Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta ra đời khi Hiến pháp 1980 được ban hành dựa trên cơ sở lí luận về tính tất yếu khách quan của việc xã hội hoá đất đai. Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai của Nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân nhưng không làm rõ khái niệm và nội dung cụ thể của hình thức sở hữu này. Vì vậy, trên thực tế dường như có sự đồng nhất giữa sở hữu toàn dân về đất đai và sở hữu nhà nước về đất đai. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về việc có hay không sự đồng nhất giữa khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai và khái niệm sở hữu nhà nước về đất đai.

- Quan điểm thứ nhất: không thừa nhận sự đồng nhất giữa khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai và khái niệm sở hữu nhà nước về đất đai. Quan điểm này cho rằng không nên đồng nhất sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước vì Nhà nước đại diện cho toàn dân chứ không phải Nhà nước với nhân dân là một. Sự thống nhất giữa Nhà nước với nhân dân đến đâu còn tuỳ thuộc vào chủ trương, chính sách của Nhà nước có phù hợp với lợi ích, có đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân hay không. Hơn nữa, đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, bên cạnh quyền làm chủ của Nhà nước với tư cách là đại diện cho dân còn có quyền tham gia làm chủ của tập thể những người lao động sử dụng những tài sản ấy. 

Sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm được sử dụng để phản ánh đất đai thuộc về sở hữu chung của một cộng đồng xã hội, bao gồm toàn dân. Khái niệm này không chỉ ra được hay nói cách khác không định danh được một người cụ thể nào là chủ sở hữu đất đai. Sở hữu toàn dân về đất đai được hiểu là toàn dân nhân dân đều có quyền sở hữu đất đai và quyền này không thuộc về riêng một cá nhân nào trong xã hội. Còn khái niệm sở hữu nhà nước về đất đai mang tính cụ thể hơn, nó chỉ ra Nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai.

- Quan điểm thứ hai, đồng nhất giữa khái niệm sở hữu nhà nước về đất đai với khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai. Sự đồng nhất giữa hai khái niệm này được lý giải bởi lí do xuất phát từ bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân", Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên, đại diện trung thành cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân nên lợi ích của Nhà nước cũng chính là lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. 

 

2.3. Phân biệt khái niệm sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân 

Mặc dù có nhiều quan điểm liên quan đến hai khái niệm sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân, tuy nhiên không nên đồng nhất giữa hai khái niệm trên bởi những lý do sau đây:

- Trong Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013, Luật đất đai 1987, Luật đất đai 1993, Luật đất đai 2003, Luật đất đai 2013 và các văn bản pháp luật khác có liên quan chưa hề đề cập tới khái niệm sở hữu nhà nước về đất đai mà chỉ đưa ra khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai. Theo đó, về mặt pháp lí chưa có sự ghi nhận đối với khái niệm sở hữu nhà nước về đất đai mà chỉ tồn tại khái niêm sở hữu toàn dân về đất đai.

- Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được hiểu là hệ thống quy chế chung trong quan hệ đất đai mà toàn dân là chủ thể nhưng lại không thể tự đứng ra để thực hiện quyền sở hữu mà phải thông qua một người đại diện và nhân danh mình làm việc đó và Nhà nước là người đủ tư cách nhất, vì Nhà nước được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quyền định đoạt của Nhà nước đối với đất đai được thực hiện trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

Như vậy, với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thực hiện quyền định đoạt đất đai. Hay nói cách khác, Nhà nước là chủ thể đại diện của quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Quyền sở hữu đại diện của Nhà nước mang tính chất duy nhất và tuyệt đối.

Mọi vướng mắc Quý bạn đọc vui lòng trao đổi trực tiếp luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:19006162 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Trân trọng!