1. Khái niệm xung đột pháp luật

Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự dân sự có yếu tố nước ngoài ( quan hệ tư pháp quốc tế ).

Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật:

 

2. Phương pháp dùng quy phạm xung đột

Phương pháp dùng quy phạm xung đột bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu của Friedrich Carl von Savigny, một nhà luật gia người Đức rất nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn vào thế kỷ 18 trong giới luật gia với học thuyết ‘Luật của trái chủ’. Sau đó phương pháp này được sử dụng phổ biến để giải quyết xung đột trong tư pháp quốc tế và còn được gọi là ‘Luật xung đột’ (Conflict of laws) tại các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu và rộng rãi như một công cụ để thiết lập và bảo đảm trật tự pháp lý trong các quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh. Hiện nay phương pháp dùng quy phạm xung đột được sử dụng cả trong hệ thống Common Law hay hệ thống Civil Law.

Trước hết cần phải hiểu khái niệm về quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột là quy phạm chỉ ra hệ thống pháp luật nào trong đó các hệ thống pháp luật đang xung đột được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể.

Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật mà chỉ đưa giải pháp gián tiếp cho việc giải quyết sự xung đột về mặt quyền lợi giữa các chủ thể đó. Có thể nói, quy phạm xung đột luôn mang tính chất ‘dẫn chiếu’ khi nó thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn việc lựa chọn một cách khách quan nguồn luật có mối liên quan nhất và có hiệu lực áp dụng nhất cho loại quan hệ pháp luật nhất định. Quy phạm xung đột khi dẫn chiếu tới việc áp dụng luật thì luật được áp dụng có thể là luật của nước nơi có Tòa án giải quyết tranh chấp (lex fori) hoặc là luật của một nước khác.

Quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết quan hệ pháp luật. Nó chỉ có nhiệm vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó có các quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. Các quy định đó cũng là nền tảng để giải quyết tranh chấp khi chúng phát sinh.

Khác với các quy phạm pháp luật thông thường nói chung được cấu thành bởi ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài, quy phạm xung đột về cơ cấu chỉ bao gồm hai bộ phận là phạm vi và lệ thuộc. Đây là hai bộ phận không thể thiếu trong mỗi quy phạm xung đột. Phần phạm vi là phần quy định mối quan hệ cụ thể nào chịu sự điều chỉnh của quy phạm xung đột. Phần hệ thuộc là phần quy định rõ luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột trong mối quan hệ đã được nêu tại phần phạm vi.

Phương pháp xung đột được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia. Các quốc gia tự ban hành các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật nước mình để hướng dẫn chọn luật áp dụng để chủ động trong việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế trong khi chưa xây dựng được đầy đủ các quy phạm thực chất thống nhất. Các nước cùng nhau ký kết các điều ước quốc tế để xây dựng lên các quy phạm xung đột thống nhất.

Ví dụ, khi giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu, thì hiện nay Việt Nam sử dụng phương pháp xung đột vẫn là phương pháp giải quyết chủ yếu. Về nguyên tắc chung, để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam cũng cần dựa trên cơ sở nguyên tắc luật nơi có tài sản.

Điều đó có nghĩa rằng, pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng luật của quốc gia nơi có tài sản để điều chỉnh các vấn đề về xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Căn cứ theo quy định này, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận quyền sở hữu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng như các tổ chức, cá nhân Việt Nam đối với những tài sản tồn tại ở nước ngoài nếu quyền đó hình thành trên cơ sở pháp luật nước ngoài là nơi có tài sản. Khi tài sản đó được đưa vào Việt Nam một cách hợp pháp thì pháp luật Việt Nam vẫn thừa nhận quyền sở hữu của các chủ tài sản đó. Tuy nhiên, về nội dung và phạm vi hành xử quyền sở hữu trong trường hợp này phải do pháp luật Việt Nam quy định.

 

3. Phương pháp thống nhất luật thực chất

Quy phạm pháp luật thực chất hay còn gọi là quy phạm thực chất là những quy phạm trực tiếp giải quyết các quan hệ pháp luật mang tính quốc tế, trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với các chủ thể tham gia các quan hệ này.

Thống nhất luật thực chất là việc các nước cùng nhau thỏa thuận xây dựng các quy phạm thực chất để điều chỉnh các quan hệ kinh doanh quốc tế. Thống nhất luật thực chất được tiến hành bằng cách ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương có hiệu lực đối với các nước thành viên.

 

3.2. Các quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế

Từ những thập kỷ 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện rất nhiều điều ước thương mại quốc tế chứa đựng các quy phạm thực chất thống nhất ký kết và thực hiện như một xu hướng phát triển kinh tế tất yếu của thể giới. Một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế như Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình, Công ước của Liên hợp quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước viên năm 1980).

Trước đây, Việt Nam có tham gia vào một điều ước quốc tế đa phương thống nhất luật thực chất về hợp đồng, đó là Điều kiện giao hàng chung được thông qua năm 1958 trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa vào thời kỳ bấy giờ (khối SEV). Điều kiện giao hàng chung này được áp dụng một cách bắt buộc và tự động cho tất cả các hợp đồng mua bán giữa các doanh nghiệp thuộc các quốc gia của SEV. Nội dung của Điều kiện giao hàng chung là các quy phạm thực chất thống nhất, điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng mua bán như thành lập hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, vi phạm hợp đồng, các chế tài, bất khả kháng… Khi Hội đồng tương trợ kinh tế tan rã vào năm 1991, Điều kiện giao hàng chung này cũng chấm dứt hiệu lực.

Phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Các quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế.

Các quy phạm thực chất thống nhất hiện nay chủ yếu có trong điều ước quốc tế về các lĩnh vực thương mại, hằng hải quốc gia hoặc các lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp: Công ước Bécnơ 1886 về bảo vệ quyền tác giả; Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.

Các quy phạm thực chất còn được ghi nhận trong các tập quán quốc tế nhất là trong lĩnh vực thương mại và hằng hải quốc tế: Tập hợp các quy tắc tập quán INCOTERMS 2000 về các điều kiện mua bán mua bán hàng hoá quốc tế.

 

3.2. Các quy phạm thực chất trong luật của quốc gia (luật quốc nội)

 Quy phạm thực chất được quy định trong luật đầu tư, luật về chuyển giao công nghệ. Ngoài ra trong trường hợp khi tư pháp quốc tế xảy ra không có quy phạm thực chất và quy phạm xung đột, vấn đề điều chỉnh quan hệ này được thực hiện dựa trên nguyên tắc luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo quan điểm chung hiện nay, trong trường hợp quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra mà không có quy phạm thực chất thống nhất cũng như quy phạm xung đột nếu các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ đó phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào thì áp dụng pháp luật nước đó trừ khi hậu quả của việc áp dụng đó trái với những nguyên tắc kể trên.

Tuy các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển, đã rất nỗ lực trong việc xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất, nhưng nhìn chung, việc này thường khó khăn. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất có hiệu lực áp dụng trên phạm vi quốc tế, những phương pháp giải quyết xung đột pháp luật bằng cách sử dụng quy phạm xung đột vẫn là phương pháp được áp dụng phổ biến.

Ví dụ giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có thể được coi là vấn đề trọng tâm khi đề cập tới quan hệ sở hữu trong tư pháp quốc tế hiện nay. Để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu, các quốc gia thường sử dụng hai phương pháp để giải quyết, đó là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột trên tinh thần tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu.

Thứ nhất, nguyên tắc luật nơi có tài sản. Nguyên tắc luật nơi có tài sản là nguyên tắc được áp dụng để xác định điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản phát sinh xung đột về quyền sở hữu.

Thứ hai, nguyên tắc luật nơi có tài sản được sử dụng để xác định luật của nước cần áp dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu bao gồm: định danh tài sản, xác định điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ sở hữu và nội dung quyền sở hữu đối với tài sản phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu.

 

4. Sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài

Xuất phát từ các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nên khi giải quyết các quan hệ này nếu không có các quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh thì các cơ quan có thẩm quyền bắt buộc phải dùng các quy phạm xung đột cũng là thừa nhận khả năng có thể áp dụng pháp luật nước ngoài ở một mức độ nhất định được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới.

Việc áp dụng pháp luật nước ngoài là một nhu cầu khách quan tất yếu trong quan hệ quốc tế nhằm đảm bảo lợi ích của các bên tham gia quan hệ và để thúc đẩy mối quan hệ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế.Trong nhiều trường hợp việc áp dụng pháp luật nước ngoài là phương án hợp lí nhất để đảm bảo mọi khía cạnh.

Một căn cứ nữa của việc áp dụng pháp luật nước ngoài là luật nước ngoài chỉ được áp dụng trên cơ sở của sự quy định của các quy phạm xung đột do luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia dẫn chiếu. Tuy nhiên, áp dụng pháp luật nước ngoài luôn phải đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và đảm bảo trật tự quốc gia.


 

5. Câu hỏi thường gặp về giải quyết xung đột pháp luật

5.1 Chủ thể giải quyết xung đột?

Chủ thể có thẩm quyền giải quyết xung đột thẩm quyền là tòa án nơi có đơn kiện của một trong hai bên chủ thể của tranh chấp

Chủ thể có thẩm quyền giải quyết xung đột luật là Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

 

5.2 Trình tự giải quyết xung đột ?

Trước hết phải giải quyết xung đột thẩm quyền, sau đó mới giải quyết xung đột pháp luật. Chỉ khi xác định được cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc thì mơi xét đến việc giải quyết vụ việc đó như thế nào.

 

5.3 Phương pháp giải quyết xung đột?

Việc giải quyết về xung đột thẩm quyền xét xử, được xác định thông qua các dấu hiệu.

Việc giải quyết về xung đột luật, được xác định bằng phương pháp thực chất, phương pháp xung đột, áp dụng tập quán hoặc tương tự.

Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)