1. Khái niệm thương mại, quan hệ thương mại

Thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Cho nên, "quan hệ thương mại" là quan hệ xã hội mang tính chất thương mại bao gồm giao dịch sau và không bao gồm các giao dịch này: cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối sản phẩm; đại diện thương mại; ủy thác thu nợ; các dịch vụ cho thuê tài chính; dịch vụ tư vấn; dịch vụ thiết kế; cho thuê bằng phát minh sáng chế; đầu tư; tài trợ; giao dịch ngân hàng; bảo hiểm; hợp đồng khai thác hoặc đấu thầu; liên doanh, liên kết và các hình thức hợp tác công nghiệp, thương mại khác; vận tải hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ.

Căn cứ vào Luật Thương mại năm 2005, quan hệ thương mại chỉ phát sinh trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa như: mua bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý mua hàng hóa, gia công hàng hóa, đấu giá hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa, khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa và hội chợ triển lãm thương mại.

Dường như, "quan hệ thương mại" được định nghĩa theo phương pháp liệt kê làm cho định nghĩa này không được đầy đủ, rõ ràng và ngắn gọn. Do đó, có thể hiểu "quan hệ thương mại" rằng là tổng thể quan hệ phát sinh trong toàn bộ hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận.

Hiện nay, hoạt động mua bán hàng hóa trên thế giới đã cho thấy xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò thương mại quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế của các nước. Cho đến nay chưa có định nghĩa hay một cách hiểu thống nhất về hoạt động thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là tổng hợp các hoạt động, giao dịch hàng hóa và dịch vụ trong quan hệ thương mại quốc tế. Điểm chưa thống nhất là khi tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế thì đối tượng tham gia gồm nhiều chủ thể khác nhau, có quan hệ thương mại quốc tế phát sinh giữa các quốc gia (kể cả các nước, vùng lãnh thổ) nhưng cũng có quan hệ thương mại quốc tế phát sinh giữa các doanh nghiệp, các công ty thương mại của các nước khác nhau với nhau. Quan hệ thương mại quốc tế cũng có thể có sự tham gia của các tổ chức quốc tế như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hoặc của cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc như Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL),...

Các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài là những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương mại mà: một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ thương mại phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ thương mại đang ở nước ngoài. Ngày nay, các quan hệ thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thương mại quốc tế bao gồm: các quan hệ thương mại quốc tế mang tính chất công (quan hệ giữa các quốc gia và các chính phủ) và các quan hệ thương mại quốc tế mang tính chất tư (quan hệ thương mại giữa thương nhân với nhau).

 

2. Chủ thể của quan hệ thương mại quốc tế công và tư

2.1. Quốc gia

Quốc gia là chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế công và trong quan hệ thương mại tư. Trong thương mại quốc tế, quốc gia tham gia với tư cách là chủ thể của quan hệ thương mại quốc tế khi quốc gia ký kết hoặc gia nhập vào các điều ước quốc tế về thương mại. Còn khi quốc gia tham gia quan hệ thương mại quốc tế với các thương nhân khác thì quốc gia sẽ là chủ thể đặc biệt và được hưởng quy chế đặc biệt. Vì vậy, một số nguyên tắc trong giao dịch hợp đồng sẽ bị hạn chế nếu quốc gia tham gia với tư cách chủ thể không tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ của mình. Cụ thể, các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng luôn bình đẳng với nhau. Nhưng trong trường hợp một bên chủ thể là quốc gia thì nguyên tắc bình đẳng hầu như không được đặt ra vì quốc gia là chủ thể có quyền tối cao trong đối nội và đối ngoại, có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối đối với lãnh thổ của mình. Hay các bên chủ thể thỏa thuận với nhau những vấn đề mà pháp luật không cấm kể cả việc chọn luật áp dụng cho hợp đồng là pháp luật của quốc gia tham gia quan hệ hợp đồng đó.

 

2.2. Thương nhân

Chủ thể quan hệ thương mại mang tính chất tư chủ yếu là các thương nhân với nhau. Thương nhân là thuật ngữ được các nước trên thế giới thừa nhận rộng rãi khi nói về các thể nhân và pháp nhân tham gia vào quan hệ thương mại nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng. 

Cá nhân hay còn gọi là thể nhân, để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật thương mại quốc tế thì cá nhân cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định theo quy định của pháp luật. Luật pháp của hầu hết các nước đều dựa vào hai tiêu chuẩn pháp lý liên quan trực tiếp tới cá nhân: các điều kiện về nhân thân và các điều kiện về nghề nghiệp.

Thứ nhất, điều kiện nhân thân của cá nhân là điều kiện pháp lý gắn liền với một con người cụ thể: đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi và phải đáp ứng một số quy định của pháp luật như không chấp hành án phạt tù, không bị Tòa án truất quyền kinh doanh,...

Thứ hai, điều kiện về nghề nghiệp thì pháp luật thương mại các nước thường căn cứ theo tiêu chí liên quan đến nghề nghiệp của thương nhân như: thực hiện các hành vi, các hoạt động thương mại; nhân danh bản thân mình để thực hiện các hành vi thương mại đó, coi là nghề nghiệp thường xuyên của mình.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005:

"Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh".

Đối với công dân mang quốc tịch nước ngoài có được trở thành thương nhân để hoạt động thương mại quốc tế trên phạm vi lãnh thổ nước sở tại hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào luật pháp của từng nước và tùy theo trường hợp cụ thể.

Tiếp đến, pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới hình thức, bằng các phương thức mà pháp luật không cấm.

Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc đăng ký theo pháp luật nước ngoài hoạt động tại nước sở tại. Trong quá trình hoạt động, thương nhân phải tuân thủ theo pháp luật của nước nơi nó hoạt động. Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại năm 2005: "Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận".

Ngoài ra, chủ thể quan hệ thương mại mang tính chất tư còn có các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Tổ chức quốc tế liên chính phủ là các thực thể liên kết các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, được hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế có quyền năng chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan duy trì hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích tôn chỉ của tổ chức quốc tế đó. Trong quan hệ thương mại với các thương nhân, tổ chức quốc tế liên chính phủ hưởng quyền miễn trừ tư pháp trên cơ sở điều ước quốc tế ký với quốc gia sở tại. 

 

3. Nguồn pháp luật trong quan hệ thương mại quốc tế

Quan hệ thương mại quốc tế công và tư đều có nguồn pháp luật là các điều ước quốc tếtập quán quốc tế.

Thứ nhất, điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế, do các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, thông qua các quy phạm gọi là quy phạm điều ước. Điều ước quốc tế đương nhiên có giá trị bắt buộc áp dụng đối với các bên - nếu các bên chủ thể của giao dịch thương mại quốc tế có quốc tịch của các quốc gia thành viên của Điều ước quốc tế về thương mại đó. Hay các bên chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế không mang quốc tịch các nước thành viên của Điều ước quốc tế về thương mại, nhưng nếu các bên có thỏa thuận áp dụng Điều ước quốc tế đó thì các quy định trong Điều ước này vẫn được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia thì các điều ước quốc tế về thương mại quốc tế có thể chia thành: 

- Điều ước quốc tế song phương: là điều ước do hai chủ thể của luật quốc tế ký kết với nhau. Các điều ước quốc tế song phương tạo nền tảng pháp lý cho các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại giữa nước ta với nước ngoài, trước hết là Hiệp định Tương trợ tư pháp: Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với Ba Lan năm 1993, với Lào năm 1998, với Cộng hòa Pháp năm 2000,... Hiệp định Tương trợ tư pháp là điều chỉnh thống nhất các xung đột pháp luật về pháp luật áp dụng và về thẩm quyền giải quyết các quan hệ pháp luật về quyền sở hữu, về hợp đồng dân sự - kinh tế - thương mại giữa công dân và pháp nhân Việt Nam với công dân và pháp nhân các nước ký kết. Để điều chỉnh các hoạt động thương mại và hàng hải, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại và hàng hải với các nước: Hiệp định thương mại và hàng hải với Ba Lan năm 1968, với Cuba năm 1970, với Hàn Quốc năm 1993,...Bên cạnh đó, các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương cũng là nguồn cấu thành quan trọng của pháp luật thương mại quốc tế: Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Philippines năm 1992, với Singapore năm 1992, với Trung Quốc năm 1992,...Cùng với đó, Việt Nam còn ký kết nhiều hiệp định về tránh đánh thuế hai lần với các nước Tây Âu, Bắc Âu, châu Mỹ và khu vực châu Á.

- Điều ước quốc tế đa phương: là điều ước quốc tế do nhiều chủ thể ký kết với nhau, như: Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) năm 1994, Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) của Tổ chức thương mại thế giới liên quan đến thương mại trong dịch vụ và đầu tư, Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980,...

Căn cứ vào tính chất điều chỉnh của điều ước quốc tế thì có hai loại điều ước quốc tế về thương mại:

- Điều ước quốc tế đưa ra những nguyên lý pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại. Những điều ước quốc tế này không điều chỉnh các vấn đề pháp lý về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể mà chỉ nêu những nguyên tắc pháp lý chung. Ví dụ: Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) năm 1994, Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) của Tổ chức thương mại thế giới liên quan đến thương mại trong dịch vụ và đầu tư,...., trong đó các quốc gia ký kết đưa ra các nguyên tắc: tối huệ quốc về thương mại, nguyên tắc có đi có lại về thương mại, nguyên tắc đối xử quốc gia,...

- Điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc ký kết và thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế như: Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 trong đó quy định thủ tục ký kết hợp đồng mua bán; quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng,...

Thứ hai, tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự phổ biến được thừa nhận và áp dụng rộng rãi ở một khu vực nhất định hoặc trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ: các điều kiện giao hàng trong bộ quy tắc thương mại quốc tế (INCOTERMS) do phòng thương mại (ICC) phát hành, quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP 500 do Phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành để áp dụng vào hoạt động thanh toán quốc tế,...Tập quán quốc tế trở thành nguồn của pháp luật thương mại quốc tế khi được pháp luật trong nước trong các trường hợp sau:

Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại tư - quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài có cả: pháp luật thương mại quốc gia và án lệ thương mại quốc tế.

- Pháp luật thương mại quốc gia: (áp dụng theo chỉ dẫn của quy phạm xung đột của quốc gia hoặc quy phạm xung đột thống nhất mà quốc gia tham gia xây dựng). Hiện nay, pháp luật trong nước là nguồn cơ bản và chủ yếu của Luật thương mại quốc tế ở các quốc gia. Bởi chúng ta chưa có nhiều các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế này và mỗi quốc gia có một hệ thống các văn bản quy định về các hoạt động thương mại quốc tế của mình.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cần kể đến các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng là nguồn của pháp luật thương mại quốc tế như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015,....

- Án lệ: là các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực do Tòa án xét xử trước đây và được sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự xảy ra sau này. Án lệ chủ yếu là các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế như: Phòng thương mại quốc tế (ICC), Trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID)....