Mục lục bài viết
- 1.Kinh phí hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
- 2.Kinh phí hoạt động của các tổ chức CTXH - nghề nghiệp, TCXH, TCXH - nghề nghiệp
- 3.Quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ
- 4.Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách
- 5.Rà soát các Quỹ tài chính ngoài NS để huy động nguồn lực cho phục hồi và PTKT
1.Kinh phí hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
1. Kinh phí hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam được ngân sách nhà nước bảo đảm theo nguyên tắc ngân sách nhà nước cấp phần chênh lệch giữa dự toán chi được xác định theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định với các nguồn thu theo Điều lệ của các tổ chức này.
2. Việc lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách của các tổ chức quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan.
3. Giao Bộ Tài chính quy định cụ thể về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước đối với các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.Kinh phí hoạt động của các tổ chức CTXH - nghề nghiệp, TCXH, TCXH - nghề nghiệp
1. Kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm. Trường hợp các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao nhiệm vụ thì được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện.
2. Kinh phí hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được bố trí trong dự toán ngân sách của từng cấp ngân sách trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định.
3. Việc lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, quy định tại Nghị định này và pháp luật có liên quan.
4. Chính phủ có quy định cụ thể việc hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với các tổ chức quy định tại khoản 1 Điều này.
3.Quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ
1. Quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ là việc lập, phân bổ, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước trên cơ sở xác định rõ kinh phí ngân sách gắn với nhiệm vụ, dịch vụ, sản phẩm cần hoàn thành với khối lượng, số lượng và chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định.
2. Đối tượng thực hiện quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ là các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước đáp ứng đủ điều kiện sau:
a) Xác định được khối lượng, số lượng, chất lượng, thời gian hoàn thành;
b) Có cơ sở, căn cứ tính toán để lập và giao dự toán kinh phí theo tiêu chuẩn định mức kỹ thuật kinh tế, định mức chi tiêu hoặc giá trị của nhiệm vụ, dịch vụ, sản phẩm tương đương cùng loại được cung ứng trong điều kiện tương tự (bao gồm cả các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp theo quy định của pháp luật);
c) Phải có tiêu chí, cơ chế giám sát, đánh giá kết quả thực hiện;
d) Có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa cơ quan giao nhiệm vụ và cơ quan nhận nhiệm vụ về việc quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ.
3. Phạm vi áp dụng là các nhiệm vụ, dịch vụ, sản phẩm có thể xác định được rõ yêu cầu về khối lượng, số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của nhiệm vụ, dịch vụ, sản phẩm hoàn thành và nhu cầu kinh phí ngân sách cần bảo đảm trên cơ sở định mức kỹ thuật kinh tế, tiêu chí, định mức chi ngân sách được cơ quan có thẩm quyền quyết định.
4. Nguyên tắc áp dụng:
a) Tăng thẩm quyền, đi đôi với tăng trách nhiệm cá nhân, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của thủ trưởng đơn vị;
b) Đơn giản hóa quy trình quản lý ngân sách nhà nước trong khâu kiểm soát chi, quyết toán chi ngân sách nhà nước;
c) Khối lượng, số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, thời gian cung cấp, dự toán chi phí của nhiệm vụ, dịch vụ, sản phẩm phải bảo đảm tối thiểu bằng hoặc tốt hơn so với phương thức quản lý ngân sách nhà nước theo các yếu tố đầu vào;
d) Giao Bộ Tài chính quy định chi tiết và hướng dẫn việc quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ.
4.Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách
1. Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là quỹ được thành lập theo quy định tại khoản 19 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước.
2. Ngân sách nhà nước không hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
3. Căn cứ khả năng của ngân sách nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách được cơ quan có thẩm quyền xem xét hỗ trợ vốn điều lệ từ ngân sách nhà nước khi đáp ứng đủ các điều kiện:
a) Được thành lập và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật;
b) Có khả năng tài chính độc lập;
c) Có nguồn thu, nhiệm vụ chi không trùng với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước.
4. Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và cơ quan quản lý quỹ phải thực hiện theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và quy định của Nghị định này về lập, chấp hành, quyết toán, kiểm toán ngân sách nhà nước đối với phần vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ.
5. Hằng năm, cơ quan quản lý quỹ do trung ương quản lý báo cáo Bộ Tài chính tình hình thực hiện kế hoạch tài chính, kế hoạch tài chính năm sau và quyết toán thu, chi quỹ để tổng hợp báo cáo Chính phủ để báo cáo Quốc hội cùng với báo cáo dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước; cơ quan quản lý quỹ do địa phương quản lý báo cáo Sở Tài chính tình hình thực hiện kế hoạch tài chính, kế hoạch tài chính năm sau và quyết toán thu, chi quỹ để tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cùng với báo cáo dự toán và quyết toán ngân sách địa phương.
6. Cơ quan quản lý quỹ tài chính ngoài ngân sách ở trung ương có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ để giải trình với Quốc hội khi có yêu cầu; cơ quan quản lý quỹ tài chính ngoài ngân sách ở địa phương có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để giải trình với Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu.
5.Rà soát các Quỹ tài chính ngoài NS để huy động nguồn lực cho phục hồi và PTKT
Trong phiên làm việc buổi sáng, các đại biểu đã nghe đại diện lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ (đơn vị chủ quản của các Quỹ khoa học và công nghệ) trình bày báo cáo và tiến hành thảo luận, cho ý kiến về thực trạng của các Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (Natif), Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia (Nafosted) và Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Qua thảo luận, các đại biểu ghi nhận thời gian qua về cơ bản các Quỹ đầu tư cho khoa học và công nghệ đã phát huy hiệu quả, góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp. Cụ thể, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) đã thúc đẩy phát triển mạnh hoạt động nghiên cứu cơ bản tại Việt Nam và góp phần gia tăng mạnh mẽ số lượng các bài báo công bố quốc tế. Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (Natif) cũng đã có những đóng góp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy đóng góp nguồn lực từ xã hội, đặc biệt là từ doanh nghiệp cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, kết quả là đầu tư từ NSNN và doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ đạt tỉ lệ 52% so với 48% như hiện nay.
Tuy nhiên, các đại biểu cũng cho rằng, trong giai đoạn tới cần có các giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò và chức năng của các Quỹ đầu tư cho khoa học và công nghệ, đặc biệt là khơi thông mạnh mẽ nguồn lực của doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong đó cần lưu ý đến việc bảo đảm các nguồn vốn của các quỹ, phù hợp với định hướng quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước cho các hoạt động nghiên cứu cơ bản có thế mạnh của Việt Nam; linh hoạt trong sử dụng nguồn tài chính, tạo điều kiện để gia tăng thêm nguồn kinh phí tài trợ cho doanh nghiệp; rà soát, sửa đổi các quy định đang là nút thắt để cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn Quỹ này cho hoạt động đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Các đại biểu nhấn mạnh điều này là đặc biệt quan trọng trong bối cảnh và yêu cầu phục hồi kinh tế trong và sau đại dịch.
Khẳng định việc đầu tư cho khoa học công nghệ của các doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị cần có đánh giá một cách đầy đủ, chỉ rõ những vướng mắc, tồn tại trong quản lý, sử dụng quỹ để từ đó kịp thời tháo gỡ, khơi thông nguồn lực cho phát triển.
Các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN được hình thành từ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và được cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Nguồn lực tài chính của các quỹ về cơ bản được hình thành từ các nguồn chính như: nguồn độc lập với NSNN, có nguồn thu và nhiệm vụ chi không trùng với nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách; NSNN cấp vốn điều lệ ban đầu khi thành lập, không hỗ trợ kinh phí hoạt động; NSNN hỗ trợ kinh phí hoạt động và vốn điều lệ.
Bên cạnh đó, còn có các quỹ xã hội, quỹ từ thiện do các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và địa phương thành lập nhằm mục đích hỗ trợ và khuyến khích phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, khuyến học, từ thiện, nhân đạo, phát triển cộng đồng, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện được Nhà nước cấp kinh phí hỗ trợ đối với những hoạt động gắn với các nhiệm vụ của Nhà nước giao.
Thống kê sơ bộ cho thấy, hiện nay, có khoảng trên 40 quỹ/loại quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách được thành lập ở trung ương và địa phương. Các loại quỹ rất đa dạng và hoạt động trong nhiều lĩnh vực, được quản lý bởi nhiều bộ, ngành, địa phương và có quy mô khác nhau.
Các quỹ hiện nay được tổ chức chủ yếu theo 3 phương thức: hoạt động theo mô hình kiêm nhiệm được quản lý bởi các cơ quan nhà nước, đơn vị, tổ chức có hoạt động hỗ trợ của ngân sách nhà nước; hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập; hoạt động theo mô hình chuyên biệt (công ty TNHH một thành viên).
Trong nhiều năm qua, việc thành lập và hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN đã góp phần thúc đẩy xã hội hóa, huy động thêm nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN đã được quan tâm, góp phần chấn chỉnh các sai phạm và tăng cường hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng của một số quỹ.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hệ thống pháp luật và việc quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN quy định về nguồn tài chính hình thành, mô hình tổ chức, hoạt động của các quỹ còn phức tạp, thiếu thống nhất và chưa có một văn bản pháp luật mang tính khuôn khổ pháp lý chung để quản lý các quỹ một cách thống nhất...