Mục lục bài viết
- 1. Các loại đèn trang bị trên tàu thuyền
- 2. Quy định về tầm nhìn xa của các đèn
- 3. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền máy đang hành trình
- 4. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền lai kéo và lai đẩy
- 5. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền buồm đang hành trình và thuyền chèo bằng tay
- 6. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền đánh cá
- 7. Quy định trưng đèn đối với tàu thuyền mất khả năng điều động và tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động
- 8. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền hoa tiêu
- 9. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền neo và tàu thuyền bị mắc cạn
- 10. Vị trí và đặc tính kỹ thuật của các đèn và dấu hiệu
- 11. Câu hỏi pháp lý khác liên quan đến tàu thuyền trên biển
- 11.1 Tàu thuyền hành trình trong hệ thống phân luồng phải tuân thủ quy định gì?
- 11.2 Tàu thuyền được nhường đường phải hành động như thế nào?
- 11.3 Khi tàu thuyền buồm đến gần nhau có nguy cơ đâm va thì phải hành động như thế nào?
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
Luật sư tư vấn:
Căn cứ cơ sở pháp lý được quy định tại Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015; Thông tư số 19/2013/TT-BGTVT Quy định việc áp dụng quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển và các văn bản hướng dẫn sau:
- Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển của Tổ chức Hàng hải quốc tế năm 1972 được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1981, 1987, 1989, 1993, 2001 và 2007
- Các quy định về đèn và dấu hiệu được áp dụng trong mọi điều kiện thời tiết.
- Các điều quy định về đèn phải được áp dụng từ khi mặt trời lặn đến khi mặt trời mọc và trong suốt khoảng thời gian này tàu thuyền không được trưng các đèn khác có thể gây nhầm lẫn với các đèn quy định tại Điều này hoặc làm giảm tầm nhìn xa hoặc gây ảnh hưởng đến đặc tính riêng biệt hoặc gây trở ngại cho việc cảnh giới thích đáng.
- Những đèn quy định tại Thông tư này cũng có thể được trưng từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn khi tầm nhìn xa bị hạn chế hoặc trong các trường hợp khác xét thấy cần thiết.
- Các điều liên quan đến dấu hiệu phải được áp dụng vào ban ngày. Có thể phân tích chi tiết như sau:
1. Các loại đèn trang bị trên tàu thuyền
"Đèn cột" là một đèn trắng đặt lên mặt phẳng trục dọc của tàu thuyền, chiếu sáng liên tục trong phạm vi một cung chân trời 225° và bố trí sao cho chiếu sáng thẳng từ hướng phía trước mũi tàu đến 22,5° sau đường trục ngang của mỗi mạn.
"Đèn mạn" là một đèn xanh lục đặt ở mạn phải và một đèn đỏ đặt ở mạn trái, mỗi đèn chiếu sáng liên tục trong phạm vi một cung chân trời 112,5° và bố trí sao cho chiếu sáng thẳng từ hướng phía trước mũi tàu đến 22,5° sau đường trục ngang của mỗi mạn tương ứng.
Trên các tàu thuyền có chiều dài nhỏ hơn 20 mét, các đèn mạn có thể kết hợp thành một đèn kép hai màu đặt ở mặt phẳng trục dọc của tàu thuyền ấy.
"Đèn lái" là một đèn màu trắng đặt càng gần phía lái tàu thuyền càng tốt, chiếu sáng liên tục trong phạm vi một cung chân trời là 135° và bố trí sao cho chiếu sáng sang mỗi mạn là 67,5°.
"Đèn lai dắt" là một đèn vàng, có những đặc tính như đèn lái đã quy định tại khoản 3 Điều này.
"Đèn chiếu sáng khắp 4 phía" là một đèn chiếu sáng khắp vòng cung chân trời 360°.
"Đèn chớp" là một đèn có chớp đều theo chu kỳ 120 chớp hoặc nhiều hơn trong một phút.
2. Quy định về tầm nhìn xa của các đèn
Điều 22 Thông tư số 19/2013/TT-BGTVT quy định về tầm nhìn xa của các đèn. Theo đó, các đèn được mô tả tại các điều này phải có đủ cường độ ánh sáng quy định tại điểm 8 Phụ lục I của Thông tư này để các đèn đó có thể nhìn thấy ở những khoảng cách tối thiểu sau:
Trên các tàu thuyền có chiều dài từ 50 mét trở lên phải có:
a) Đèn cột 6 hải lý;
b) Đèn mạn 3 hải lý;
c) Đèn lái 3 hải lý;
d) Đèn lai dắt 3 hải lý;
đ) Đèn trắng, đỏ, xanh hoặc đèn vàng chiếu sáng khắp 4 phía 3 hải lý.
Trên các tàu thuyền có chiều dài từ 12 mét trở lên nhưng nhỏ hơn 50 mét phải có:
a) Đèn cột 5 hải lý, nếu chiều dài của tàu thuyền nhỏ hơn 20 mét thì 3 hải lý;
b) Đèn mạn 2 hải lý;
c) Đèn lái 2 hải lý;
d) Đèn lai dắt 2 hải lý;
đ) Đèn trắng, đỏ, xanh lục hoặc đèn vàng chiếu sáng khắp 4 phía 2 hải lý.
Trên các tàu thuyền có chiều dài dưới 12 mét phải có:
a) Đèn cột 2 hải lý;
b) Đèn mạn 1 hải lý;
c) Đèn lái 2 hải lý;
d) Đèn lai dắt 2 hải lý;
đ) Đèn trắng, đỏ, xanh lục hoặc đèn vàng chiếu sáng khắp 4 phía 2 hải lý.
Trên các tàu thuyền loại nhỏ khó phát hiện hoặc trên các vật bị lai phải có đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía 3 hải lý.
3. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền máy đang hành trình
Thứ nhất, tàu thuyền máy đang hành trình phải trưng:
a) Đèn cột trước;
b) Đèn cột thứ hai ở phía sau cao hơn đèn cột phía trước. Tuy nhiên, tàu thuyền có chiều dài dưới 50 mét không nhất thiết phải mang đèn cột thứ hai;
c) Các đèn mạn;
d) Đèn lái.
Thứ hai, tàu thuyền chạy trên đệm không khí ở trạng thái không có lượng chiếm nước, đang hành trình, ngoài những đèn nêu tại mục thứ nhất còn phải trưng 1 đèn chớp vàng chiếu sáng khắp 4 phía.
Thứ ba, tàu đệm khí có cánh khi cất cánh, hạ cánh hoặc khi bay sát mặt nước, ngoài các quy định tại mục thứ nhất, phải trưng 1 đèn chớp đỏ có cường độ ánh sáng cao, chiếu sáng khắp 4 phía.
Thứ tư, tàu thuyền máy có chiều dài dưới 12 mét:
a) Tàu thuyền máy có chiều dài dưới 12 mét có thể thay thế các đèn quy định tại khoản 1 Điều này bằng một đèn trắng chiếu sáng khắp 4 phía và các đèn mạn;
b) Tàu thuyền máy có chiều dài dưới 7 mét và tốc độ của nó không quá 7 hải lý một giờ có thể thay thế các đèn được quy định tại mục thứ nhất bằng một đèn trắng chiếu sáng khắp 4 phía. Tàu thuyền loại này nếu có thể được trưng thêm các đèn mạn;
c) Tàu thuyền máy có chiều dài dưới 12 mét, nếu trong thực tế không cho phép lắp đặt đèn cột hoặc đèn trắng chiếu sáng khắp 4 phía ở mặt phẳng trục dọc của tàu, thì các đèn này có thể lắp đặt ở mặt phẳng tương đương với mặt trục dọc, miễn là các đèn mạn được kết hợp thành một đèn lắp đặt ở mặt phẳng trục dọc hoặc thực tế cho phép thì đặt cùng mặt phẳng của đèn cột hoặc đèn chiếu sáng khắp 4 phía.
Tàu thuyền bị hạn chế mớn nước ngoài các đèn nêu trên, có thể trưng thêm ở nơi dễ nhìn thấy nhất ba đèn đỏ chiếu sáng khắp bốn phía đặt theo hình thẳng đứng hay một dấu hiệu hình trụ.
4. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền lai kéo và lai đẩy
Thứ nhất, tàu thuyền máy đang lai kéo phải trưng:
a) Thay thế đèn được quy định tại điểm a khoản 1 hoặc điểm b khoản 1 Điều 23 của Thông tư này bằng hai đèn cột trước đặt trên một đường thẳng đứng. Nếu chiều dài đoàn lai tính từ lái tàu thuyền lai đến điểm cuối cùng của đoàn lai vượt quá 200 mét thì phải trưng 3 đèn như thế;
b) Các đèn mạn;
c) Đèn lái;
d) Đèn lai dắt theo một đường thẳng đứng với đèn lái và trên đèn lái;
đ) Một dấu hiệu hình thoi treo nơi dễ nhìn thấy nhất nếu chiều dài của đoàn lai dài hơn 200 mét.
Thứ hai, khi tàu thuyền lai đẩy tàu thuyền khác phía trước mà chúng được ghép nối với tàu thuyền lai thành một khối vững chắc thì được xem như một tàu thuyền máy và phải trưng các đèn quy định tại Điều 23 của Thông tư này.
Thứ ba, tàu thuyền máy khi lai đẩy phía trước hoặc lai áp mạn tàu thuyền khác mà chúng không thành một đơn vị hỗn hợp vững chắc thì phải trưng:
a) Hai đèn cột trên một đường thẳng đứng thay cho các đèn quy định tại điểm a khoản 1 hoặc điểm b khoản 1 Điều 23 của Thông tư này;
b) Các đèn mạn;
c) Đèn lái.
Thứ tư, tàu thuyền máy phải áp dụng các quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều này cũng phải tuân thủ các quy định tại điểm b khoản 1 Điều 23.
Thứ năm, tàu thuyền hoặc vật bị lai, trừ các tàu thuyền quy định tại khoản 7 Điều này, phải trưng:
a) Các đèn mạn;
b) Đèn lái.
c) Một dấu hiệu hình thoi treo ở nơi dễ nhìn thấy nhất nếu chiều dài của đoàn lai dài quá 200 mét.
Thứ sáu, không kể số lượng tàu thuyền bị lai áp mạn hoặc bị lai đẩy là bao nhiêu trong một nhóm đều phải trưng đèn như một tàu thuyền:
a) Tàu thuyền bị lai đẩy phía trước, phải trưng các đèn mạn phía trước nếu không phải là một bộ phận của một đơn vị vững chắc;
b) Tàu thuyền bị lai áp mạn phải mang đèn lái và các đèn mạn phía mũi.
Thứ bảy, tàu thuyền khó phát hiện hoặc vật bị lai hoặc sự kết hợp của các tàu thuyền như vậy, hoặc vật bị lai phải trưng:
a) Khi chiều rộng của chúng dưới 25 mét, một đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía đặt ở phần sát phía trước thân tàu hoặc ở gần phía đó và một đèn trắng như vậy đặt ở sát phía lái tàu hoặc ở gần phía đó, trừ loại túi chất lỏng "túi hình trụ" không thể đặt đèn ở phần phía trước hoặc ở gần phía đó;
b) Khi chiều rộng của chúng từ 25 mét trở lên, thêm hai đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía bố trí ở hai điểm xa nhất của chiều rộng tàu thuyền hoặc gần ở vị trí đó;
c) Khi chiều dài của chúng lớn hơn 100 mét, thì phải thêm các đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía theo quy định tại điểm a và điểm b, nhưng khoảng cách giữa các đèn này không được vượt quá 100 mét.
d) Một dấu hiệu hình thoi treo ở phía tận cùng phía lái tàu hoặc vật bị lai cuối cùng hay đặt ở gần phía đó, và khi chiều dài của đoàn lai lớn hơn 200 mét thì thêm một dấu hiệu hình thoi treo ở vị trí dễ trông thấy nhất.
Thứ tám, khi tàu thuyền hoặc vật bị lai không thể trưng các đèn hoặc các dấu hiệu quy định tại khoản 5 hoặc khoản 7 Điều này thì phải dùng mọi biện pháp có thể được để chiếu sáng tàu thuyền hay vật bị lai hoặc ít nhất cũng phải báo hiệu được sự có mặt của tàu thuyền hoặc vật bị lai đó.
Thứ chín, khi tàu thuyền bình thường làm nhiệm vụ lai dắt nếu không thể mang các đèn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều này như khi tiến hành lai kéo tàu thuyền gặp nạn hoặc lai kéo tàu thuyền yêu cầu cứu trợ thì tàu thuyền lai không nhất thiết phải trưng các đèn này, nhưng phải áp dụng tất cả các biện pháp có thể thực hiện được để thể hiện mối liên hệ giữa tàu thuyền lai và tàu thuyền bị lai như đã quy định tại Điều 36 của Thông tư này, mà chủ yếu là chiếu sáng dây lai.
5. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền buồm đang hành trình và thuyền chèo bằng tay
Thứ nhất, tàu thuyền buồm đang hành trình phải trưng:
a) Các đèn mạn;
b) Đèn lái.
Thứ hai, tàu thuyền buồm chiều dài dưới 20 mét thì các đèn tại mục thứ nhất có thể ghép thành một đèn ba màu đặt ở đỉnh cột hay gần cột buồm, nơi có thể nhìn thấy rõ nhất.
Thứ ba, tàu thuyền buồm đang hành trình ngoài những đèn quy định tại mục thứ nhất, có thể trưng ở đỉnh cột hoặc gần đỉnh cột buồm, nơi nhìn thấy rõ nhất hai đèn chiếu sáng khắp bốn phía trên một đường thẳng đứng: Đèn đỏ trên, đèn xanh lục ở dưới, nhưng những đèn này không được trưng ra cùng với đèn ghép tại mục thứ hai.
Thứ tư, tàu thuyền buồm có chiều dài dưới 7 mét, nếu có thể được phải trưng những đèn đã quy định mục thứ nhất, thứ hai. Khi không thể trưng các đèn như thế thì phải chuẩn bị sẵn sàng một đèn pin hoặc thắp sẵn một đèn xách tay phát ra ánh sáng màu trắng để đưa ra kịp thời tránh nguy cơ đâm va.
Thứ năm, tàu thuyền chèo bằng tay có thể trưng những đèn như quy định đối với tàu thuyền buồm, nhưng khi không trưng được những đèn như thế thì phải chuẩn bị sẵn sàng một đèn pin hoặc thắp sẵn một đèn xách tay phát ra ánh sáng màu trắng để đưa ra kịp thời tránh nguy cơ đâm va.
Thứ sáu, tàu thuyền vừa chạy buồm vừa chạy máy phải trưng ở phía trước nơi thấy rõ nhất một dấu hiệu hình nón đỉnh chúc xuống dưới.
6. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền đánh cá
Thứ nhất, tàu thuyền đang đánh cá khi hành trình hoặc đang thả neo chỉ phải trưng các đèn và dấu hiệu được quy định tại Điều này.
Thứ hai, tàu thuyền đang đánh cá bằng lưới vét hoặc một dụng cụ đánh cá khác kéo lê chìm dưới nước phải trưng:
a) Hai đèn chiếu sáng khắp bốn phía đặt trên một đường thẳng đứng, đèn trên màu xanh lục, đèn dưới màu trắng, hoặc một dấu hiệu gồm hai hình nón quay đỉnh chóp vào nhau, cái nọ đặt cách cái kia trên một đường thẳng đứng;
b) Một đèn cột đặt cao hơn ở phía sau đèn có màu xanh lục chiếu sáng khắp bốn phía. Tàu thuyền có chiều dài dưới 50 mét có thể có hoặc không có đèn này;
c) Khi tàu thuyền còn trớn thì ngoài những đèn quy định tại khoản này còn phải trưng các đèn mạn và đèn lái.
Thứ ba, tàu thuyền đang đánh cá mà dụng cụ đánh cá không phải là lưới vét hoặc một dụng cụ đánh cá kéo lê chìm dưới nước phải trưng:
a) Hai đèn chiếu sáng khắp bốn phía đặt trên một đường thẳng đứng, đèn trên màu đỏ, đèn dưới màu trắng hoặc một dấu hiệu gồm hai hình nón quay đỉnh chóp vào nhau, cái nọ đặt cách cái kia trên một đường thẳng đứng;
b) Khi dụng cụ đánh cá trải trên biển cách xa tàu thuyền trên 150 mét theo mặt phẳng ngang thì phải trưng một đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía hoặc treo một dấu hiệu hình nón đỉnh chóp lên trên đặt ở phía có dụng cụ đánh cá;
c) Khi tàu thuyền còn trớn thì ngoài những đèn quy định tại khoản này còn phải trưng các đèn mạn và đèn lái.
Thứ tư, những tín hiệu quy định tại Phụ lục II của Thông tư này áp dụng cho các tàu thuyền đang đánh cá gần nhau.
Thứ năm, tàu thuyền đánh cá, khi không làm nhiệm vụ đánh cá thì không được trưng các đèn hay dấu hiệu quy định tại Điều này mà chỉ trưng những đèn hoặc dấu hiệu quy định cho tàu thuyền có cùng chiều dài.
7. Quy định trưng đèn đối với tàu thuyền mất khả năng điều động và tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động
Thứ nhất, tàu thuyền mất khả năng điều động phải trưng:
a) Hai đèn đỏ chiếu sáng khắp bốn phía, đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất;
b) Hai hình cầu hoặc hai dấu hiệu tương tự đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất;
c) Khi tàu thuyền còn trớn, ngoài các đèn quy định tại khoản này còn phải trưng các đèn mạn và đèn lái.
Thứ hai, tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động, không kể đến tàu thuyền đang tiến hành công việc rà phá bom mìn, phải trưng:
a) Ba đèn chiếu sáng khắp bốn phía đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất, đèn trên và đèn dưới màu đỏ, đèn giữa màu trắng;
b) Ba dấu hiệu đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất, ở trên và ở dưới là dấu hiệu hình cầu, ở giữa là dấu hiệu hình thoi;
c) Khi tàu thuyền còn trớn, ngoài những đèn quy định tại điểm a khoản 2 còn phải trưng đèn cột hoặc các đèn cột, các đèn mạn và đèn lái;
d) Khi tàu thuyền neo, ngoài những đèn hay dấu hiệu được quy định tại điểm a và b khoản 2 Điều này còn phải trưng các đèn hay dấu hiệu quy định tại Điều 30 của Thông tư này.
Thứ ba, tàu thuyền máy đang tiến hành công việc lai dắt mà bị hạn chế đến khả năng của tàu lai và tàu bị lai không thể đi chệch hướng của mình thì ngoài những đèn hay dấu hiệu đã quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này còn phải trưng thêm các đèn hay dấu hiệu quy định tại khoản 1 Điều 24 của Thông tư này.
Thứ tư, tàu thuyền đang làm công tác nạo vét hay tiến hành nhưng công việc ngầm dưới nước, bị hạn chế khả năng điều động thì phải trưng các đèn và dấu hiệu được quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 Điều này và trong trường hợp làm trở ngại việc đi lại cho tàu thuyền khác thì phải trưng thêm:
a) Hai đèn đỏ chiếu sáng khắp bốn phía hoặc treo hai hình cầu theo chiều thẳng đứng ở phía có trở ngại;
b) Hai đèn xanh lục chiếu sáng khắp bốn phía hoặc treo hai hình thoi theo chiều thẳng đứng ở phía an toàn mà tàu thuyền khác có thể qua lại;
c) Khi tàu thuyền neo phải trưng các đèn hay dấu hiệu đã quy định tại điểm a và b khoản này thay cho các đèn hay dấu hiệu quy định tại Điều 30 của Thông tư này.
Thứ năm, trong trường hợp kích thước của tàu thuyền làm công tác ngầm dưới nước thực tế không cho phép trưng tất cả các đèn và dấu hiệu quy định tại khoản 4 Điều này thì tàu thuyền đó phải trưng:
a) Ba đèn chiếu sáng khắp bốn phía treo theo chiều thẳng đứng ở nơi dễ trông thấy nhất. Đèn trên và đèn dưới màu đỏ, đèn giữa màu trắng;
b) Cờ hiệu chữ "A" theo luật tín hiệu quốc tế làm bằng tấm cứng cao ít nhất 1m. Cần phải áp dụng các biện pháp để bảo đảm nhìn thấy cờ này từ bốn phía.
Thứ sáu, tàu thuyền đang tiến hành công việc rà phá bom mìn, ngoài những đèn được quy định tại Điều 23 của Thông tư này đối với tàu thuyền máy hoặc ngoài những đèn hay đấu hiệu quy định tại Điều 30 của Thông tư này đối với tàu thuyền neo, còn phải trưng ba đèn xanh lục chiếu sáng khắp bốn phía hoặc ba hình cầu phải đặt ở đỉnh cột trước, hai đèn còn lại hay hai hình cầu còn lại đặt ở đầu xà ngang của cột trước mỗi bên một chiếc. Các đèn hay dấu hiệu này biểu thị cho tàu thuyền khác biết sự nguy hiểm nếu gần tàu đang rà phá bom mìn ở khoảng cách dưới 1000 mét.
Thứ bảy, tàu thuyền có chiều dài dưới 12 mét trừ các tàu thuyền đang tiến hành công tác ngầm dưới nước, không nhất thiết phải trưng các đèn và dấu hiệu quy định tại Điều này.
Những tín hiệu quy định ở Điều này không phải là những tín hiệu của tàu thuyền bị nạn và yêu cầu giúp đỡ. Những tín hiệu gặp nạn xin cấp cứu được quy định tại Phụ lục IV của Thông tư này.
8. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền hoa tiêu
Tàu thuyền hoa tiêu đang làm nhiệm vụ hoa tiêu phải trưng:
a) Trên đỉnh hay gần đỉnh cột buồm hai đèn chiếu sáng khắp bốn phía, đặt theo chiều thẳng đứng, đèn trên màu trắng, đèn dưới mầu đỏ;
b) Khi đang hành trình, ngoài những đèn nói trên còn phải trưng các đèn mạn và đèn lái;
c) Khi neo, ngoài những đèn được quy định tại điểm a khoản 1 còn phải trưng đèn, các dấu hiệu được quy định tại Điều 30 của Thông tư này cho tàu thuyền neo.
Tàu thuyền hoa tiêu khi không làm nhiệm vụ hoa tiêu phải trưng những đèn hay dấu hiệu được quy định phù hợp với chiều dài của loại tàu thuyền đó.
9. Quy định về trưng đèn đối với tàu thuyền neo và tàu thuyền bị mắc cạn
Tàu thuyền neo phải trưng ở nơi dễ nhìn thấy nhất:
a) Ở phía mũi, một đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía hay một quả cầu;
b) Ở phía lái hay gần lái tàu thuyền, một đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía, đặt thấp hơn đèn trắng nêu tại điểm a.
Tàu thuyền có chiều dài dưới 50 mét, có thể trưng một đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía, đặt ở nơi dễ nhìn thấy nhất để thay cho các đèn đã quy định tại khoản 1 Điều này.
Tàu thuyền neo cũng có thể sử dụng những đèn làm việc sẵn có hoặc các đèn tương đương để chiếu sáng boong tàu. Đối với tàu thuyền có chiều dài bằng hoặc lớn hơn 100 mét thì quy định này là bắt buộc.
Tàu thuyền bị mắc cạn phải trưng các đèn quy định tại khoản 1 hoặc 2 Điều này và còn phải treo ở nơi dễ nhìn thấy nhất:
a) Hai đèn đỏ chiếu sáng khắp bốn phía, đặt theo chiều thẳng đứng;
b) Ba quả cầu đặt theo chiều thẳng đứng.
Tàu thuyền có chiều dài dưới 7 mét, lúc neo hay khi bị mắc cạn mà không nằm trong hay gần luồng hoặc tuyến giao thông, vùng neo tàu và những khu vực tàu thuyền thường xuyên qua lại thì không nhất thiết phải trưng những đèn hay dấu hiệu quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều này.
Tàu thuyền có chiều dài dưới 12 mét, khi bị mắc cạn không nhất thiết phải trưng những đèn hay dấu hiệu quy định tại điểm a và điểm b khoản 4 Điều này.
Trường hợp thủy phi cơ, tàu đệm khí có cánh không thể trưng các đèn hay dấu hiệu có đặc tính và vị trí đáp ứng các quy định tại các điều của Chương này, thì với mức độ có thể phải trưng các đèn và dấu hiệu có đặc tính và vị trí càng gần đúng với quy định của Thông tư này càng tốt.
10. Vị trí và đặc tính kỹ thuật của các đèn và dấu hiệu
>>> Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 19/2013/TT-BGTVT ngày 6 tháng 8 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
1. Định nghĩa
"Độ cao trên thân tàu" là chiều cao trên mặt boong cao nhất chạy liên tục từ mũi đến lái. Chiều cao này cần phải tính từ điểm đặt các đèn theo chiều thẳng đứng.
2. Vị trí và khoảng cách của các đèn theo mặt phẳng thẳng đứng
a) Trên tàu thuyền máy có chiều dài từ 20 mét trở lên các đèn cột phải được bố trí như sau:
- Đèn cột phía trước hoặc đối với tàu thuyền chỉ có duy nhất một đèn cột, thì đèn này phải đặt ở độ cao trên thân tàu ít nhất là 6 mét và nếu chiều rộng của tàu thuyền không quá 6 mét thì đèn phải đặt ở độ cao trên thân tàu tối thiểu bằng chiều rộng, nhưng không nhất thiết phải đặt đèn ở độ cao quá 12 mét trên thân tàu;
- Trong trường hợp tàu thuyền có hai đèn cột thì phải đặt đèn phía sau cao hơn đèn phía trước ít nhất là 4,5 mét.
b) Khoảng cách theo chiều thẳng đứng giữa các đèn cột của tàu thuyền máy, phải sao cho trong mọi điều kiện bình thường của độ chênh mớn nước đèn sau luôn luôn phải được nhìn thấy cao hơn và phân biệt được với đèn trước ở khoảng cách 1000 mét tính từ mũi tàu đến mực nước biển.
c) Đèn cột của tàu thuyền máy có chiều dài từ 12 mét trở lên nhưng không quá 20 mét phải đặt ở độ cao trên thân tàu ít nhất là 2,5 mét.
d) Tàu thuyền máy có chiều dài dưới 12 mét có thể bố trí đèn cao nhất không quá 2,5 mét trên mép mạn. Nhưng nếu tàu thuyền này trưng đèn cột, các đèn mạn và đèn lái hoặc đèn chiếu sáng khắp bốn phía được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 23 của Thông tư này, thì đèn cột hoặc đèn chiếu sáng khắp bốn phía phải được bố trí cao hơn các đèn mạn ít nhất là 1 mét.
đ) Một trong số 2 hoặc 3 đèn cột quy định cho tàu thuyền máy đang làm nhiệm vụ lai kéo hoặc lai đẩy một tàu thuyền khác phải bố trí ở cùng một nơi đặt đèn cột trước hoặc đèn cột sau của tàu thuyền máy. Trong trường hợp nếu tàu thuyền lai dắt bố trí ở đèn cột sau thì đèn thấp nhất trong các đèn cột sau phải bố trí cao hơn 4,5 mét theo chiều thẳng đứng so với đèn cột trước.
e) Đèn cột hoặc đèn quy định tại khoản 1 Điều 23 của Thông tư này cần phải bố trí sao cho ở trên và cách xa các đèn khác và vật cản. Trừ trường hợp khi các đèn chiếu sáng khắp bốn phía quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 hoặc tại Điều 28 của Thông tư này thực tế không thể bố trí ở dưới các đèn cột, thì có thể đặt chúng trên các đèn cột hoặc đặt ở vị trí giữa các đèn cột trước và các đèn cột sau theo chiều thẳng đứng; trong trường hợp này cần phải bảo đảm việc thực hiện các yêu cầu tại khoản c mục 3 Phụ lục này.
g) Các đèn mạn của một tàu thuyền máy phải được đặt ở độ cao trên thân tàu không vượt quá 3/4 chiều cao của đèn cột trước. Các đèn này không được đặt quá thấp để tránh nhầm lẫn với ánh sáng của các đèn trên boong.
h) Các đèn mạn, nếu được ghép thành một đèn hai màu và trên thuyền máy có chiều dài dưới 20 mét thì phải được bố trí thấp hơn đèn cột ít nhất 1 mét.
i) Khi chấp hành các điều khoản quy định phải trưng 2 hoặc 3 đèn trên một đường thẳng đứng thì khoảng cách giữa các đèn đó phải được bố trí như sau:
- Tàu thuyền có chiều dài từ 20 mét trở lên các đèn phải đặt cách nhau ít nhất là 2 mét và đèn thấp nhất trong số các đèn đó phải đặt ở độ cao ít nhất 4 mét trên sàn tàu, trừ đèn lai dắt mà tàu thuyền phải trưng:
- Tàu thuyền có chiều dài dưới 20 mét các đèn phải đặt cách nhau ít nhất là 1 mét và đèn thấp nhất trong số các đèn đó phải đặt ở độ cao ít nhất là 2 mét trên mớn nước chuyên chở, trừ đèn lai dắt theo quy định;
- Khi tàu thuyền phải trưng 3 đèn thì các đèn đó phải được đặt cách đều nhau;
k) Đèn thấp nhất trong số hai đèn chiếu sáng khắp bốn phía quy định cho tàu thuyền đang đánh cá phải đặt cao hơn các đèn mạn ít nhất bằng hai lần khoảng cách giữa hai đèn đó theo chiều thẳng đứng.
l) Khi tàu thuyền trưng hai đèn neo thì đèn neo phía mũi theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 30 của Thông tư này phải đặt cao hơn đèn neo phía lái ít nhất là 4,5 mét. Tàu thuyền có chiều dài từ 50 mét trở lên, đèn neo phía mũi đặt ở độ cao trên thân tàu tối thiểu là 6 mét.
3. Vị trí và khoảng cách giữa các đèn theo mặt phẳng nằm ngang
a) Đối với tàu thuyền máy theo quy định phải trưng 2 đèn cột thì khoảng cách theo mặt phẳng nằm ngang giữa hai đèn ít nhất bằng một nửa chiều dài của tàu thuyền đó nhưng không nhất thiết phải lớn hơn 100 mét. Đèn cột trước không được đặt cách xa sống mũi tàu quá 1/4 chiều dài của tàu thuyền đó.
b) Tàu thuyền máy có chiều dài từ 20 mét trở lên, các đèn mạn không được đặt phía trước đèn cột trước mà phải bố trí ở hai bên mạn hoặc gần hai bên mạn của tàu thuyền.
c) Khi các đèn quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 hoặc tại Điều 28 của Thông tư này đặt ở giữa đèn cột trước/các đèn cột trước và đèn cột sau/các đèn cột sau thì những đèn chiếu sáng khắp bốn phía cần phải đặt theo chiều ngang cách đường mũi lái của tàu không quá 2 mét.
d) Khi chỉ một đèn cột được quy định cho tàu thuyền máy, thì đèn này phải được trưng phía trước sườn giữa của tàu, trừ trường hợp tàu có chiều dài nhỏ hơn 20 mét không nhất thiết phải trưng đèn này ở phía trước sườn giữa của tàu, nhưng phải trưng nó càng xa về phía trước sườn của tàu càng tốt.
4. Những chi tiết liên quan đến các đèn chỉ hướng trên tàu thuyền đánh cá, tàu thuyền làm công tác nạo vét luồng lạch và tàu thuyền làm công việc ngầm dưới nước
a) Đèn chỉ hướng dụng cụ đánh cá quy định tại điểm b khoản 3 Điều 26 của Thông tư này cho tàu thuyền đang đánh cá, theo phương ngang phải đặt cách xa đèn đỏ và đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía ít nhất là 2 mét và nhiều nhất là 6 mét. Đèn chỉ hướng này phải ở vị trí sao cho không cao hơn đèn trắng chiếu sáng khắp bốn phía như quy định tại điểm a khoản 3 Điều 26 của Thông tư này mà cũng không được thấp hơn các đèn mạn.
b) Các đèn và dấu hiệu của tàu thuyền đang làm công tác nạo vét luồng lạch hoặc đang tiến hành các công việc ngầm dưới nước chỉ phía có chướng ngại hay chỉ phía để tàu thuyền qua lại an toàn như quy định tại điểm a và điểm b khoản 4 Điều 27 của Thông tư này phải được đặt ở khoảng cách tối đa theo phương ngang và trong mọi trường hợp, không được nhỏ hơn 2 mét tính từ đèn hoặc dấu hiệu quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 27 của Thông tư này. Trong mọi trường hợp, đèn hoặc dấu hiệu trên cùng của các đèn hoặc dấu hiệu này không được đặt cao hơn đèn hay dấu hiệu thấp nhất trong 3 đèn hoặc dấu hiệu quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 27 của Thông tư này.
5. Tấm chắn của các đèn mạn
Những đèn mạn trên tàu thuyền có chiều dài từ 20 mét trở lên phải có những tấm chắn sơn màu đen nhạt và thoả mãn những quy định tại mục 9 của Phụ lục này. Trên các tàu thuyền có chiều dài dưới 20 mét, các đèn mạn cần phải có những tấm chắn sơn màu đen nhạt ngăn cách với phía mặt phẳng trục dọc tàu để phù hợp với quy định tại mục 9 của Phụ lục này. Trong trường hợp sử dụng đèn kép hai màu có một vách ngăn rất hẹp giữa cung ánh sáng màu xanh lục và màu đỏ thì không cần thiết phải bố trí tấm chắn bên ngoài.
6. Các dấu hiệu
a) Các dấu hiệu phải là màu đen và có kích thước như sau:
- Đường kính tối thiểu của dấu hiệu hình cầu là 0,6 mét;
- Đường kính đáy của dấu hiệu hình chóp nón tối thiểu là 0,6 mét và có chiều cao bằng đường kính đáy;
- Đường kính của dấu hiệu hình trụ tối thiểu là 0,6 mét và có chiều cao bằng 2 lần đường kính;
- Dấu hiệu hình thoi phải gồm 2 hình nón đã nêu trên và có chung một đáy.
b) Khoảng cách thẳng đứng giữa các dấu hiệu tối thiểu là 1,5 mét.
c) Tàu thuyền có chiều dài dưới 20 mét, kích thước của các dấu hiệu có thể nhỏ hơn, nhưng phải cân đối với kích thước của tàu thuyền và khoảng cách giữa các dấu hiệu cũng có thể giảm bớt cho thích hợp.
7. Đặc tính màu sắc của các đèn
Đặc tính màu sắc của tất cả các đèn hành trình phải phù hợp với các tiêu chuẩn sau đây nằm trong phạm vi giới hạn của biểu đồ được quy định cho từng loại màu sắc do Ủy ban quốc tế về chiếu sáng đã thông qua. Vùng giới hạn của màu sắc khác nhau được xác định bằng những toạ độ gốc:
a) Màu trắng:
X 0,525 0,525 0,452 0,310 0,310 0,443
Y 0,382 0,440 0,440 0,348 0,283 0,382
b) Màu xanh lục:
X 0,028 0,009 0,300 0,203
Y 0,385 0,723 0,511 0,356
c) Màu đỏ:
X 0,680 0,660 0,735 0,721
Y 0,320 0,320 0,265 0,259
d) Màu vàng:
X 0,612 0,618 0,575 0,575
Y 0,382 0,382 0,425 0,406
8. Cường độ ánh sáng của các đèn
a) Cường độ ánh sáng tối thiểu của các đèn phải được tính toán theo công thức: I = 3,43.106.T.Đ2.K-D
Trong đó :
I: Cường độ ánh sáng tính bằng Can-de-la trong điều kiện làm việc
T: Ngưỡng chiếu sáng 2,10-7 lux (Đơn vị độ rọi)
D: Tầm nhìn thấy đèn (Tâm chiếu sáng) tính bằng hải lý
K: Hệ số truyền qua khí quyển. Đối với các đèn quy định hệ số K bằng 0,8 là trị số tương ứng với tầm xa khí tượng khoảng 13 hải lý.
b) Bảng sau đây giới thiệu một vài trị số đã tính toán theo công thức trên:
Tâm chiếu sáng của đèn tính bằng hải lý (D) | Cường độ ánh sáng của đèn tính bằng Can-de-la (I) |
1 | 0,9 |
2 | 4,3 |
3 | 12,0 |
4 | 27,0 |
5 | 52,0 |
6 | 94,0 |
Ghi chú: Cường độ ánh sáng tối đa của các đèn hành trình phải được giới hạn để tránh những phản chiếu gây trở ngại. Việc này không nhất thiết phải lắp đặt các thiết bị để điều chỉnh cường độ ánh sáng.
9. Cung theo mặt phẳng ngang
a) Đối với đèn mạn, đèn lái và đèn cột:
- Các đèn mạn được bố trí trên tàu thuyền phải đảm bảo yêu cầu cường độ ánh sáng tối thiểu ở hướng mũi tàu. Cường độ ánh sáng phải giảm dần trong phạm vi từ 10 đến 30 ngoài cung chiếu sáng theo qui định thì không thể nhìn thấy ánh sáng nữa;
- Đối với đèn lái và các đèn cột ở 22,50 sau trục ngang đối với các đèn mạn, cường độ ánh sáng yêu cầu tối thiểu phải được duy trì cho tới 50 bên trong phạm vi cung chiếu sáng quy định ở Điều 21 của Thông tư này. Từ 50 bên trong phạm vi cung chiếu sáng cho đến giới hạn của cung chiếu sáng quy định cường độ ánh sáng có thể giảm đi 50%. Sau đó cường độ ánh sáng phải giảm dần cho đến 50 bên ngoài giới hạn của cung chiếu sáng quy định thì không còn ánh sáng nữa.
b. Loại trừ các đèn neo không cần thiết phải đặt quá cao bên trên thân tàu ra, các đèn chiếu sáng khắp bốn phía phải bố trí ở vị trí sao cho không bị các cột buồm, xà ngang cột buồm hoặc các cấu trúc khác che khuất trong phạm vi một cung lớn hơn 60. Trường hợp chỉ trưng một đèn chiếu sáng khắp bốn phía, thì phải sử dụng hai đèn chiếu sáng khắp bốn phía bố trí và che chắn một cách phù hợp để chúng có thể nhìn thấy như là một đèn ở khoảng cách 01 hải lý.
10. Cung theo mặt phẳng thẳng đứng
a) Cung theo mặt phẳng thẳng đứng của đèn điện đã quy định, trừ các đèn trên tàu thuyền buồm đang chạy phải bảo đảm:
- Duy trì được cường độ ánh sáng yêu cầu tối thiểu trong phạm vi nhỏ nhất là 50 bên trên đến 50 bên dưới của mặt phẳng ngang ở tất cả các góc;
- Duy trì ít nhất 60% cường độ ánh sáng yêu cầu tối thiểu trong phạm vi từ 7,50 bên trên đến 7,50 bên dưới mặt phẳng ngang ở tất cả các góc.
b) Trường hợp tàu thuyền buồm đang chạy, cung thẳng đứng của các đèn điện qui định phải bảo đảm:
- Duy trì cường độ ánh sáng yêu cầu tối thiểu trong phạm vi từ 50 bên trên đến 50 bên dưới mặt phẳng ngang;
- Duy trì ít nhất 50% cường độ ánh sáng yêu cầu tối thiểu trong phạm vi từ 250 bên trên đến 250 bên dưới mặt phẳng nằm ngang.
c) Đối với các loại đèn không phải là đèn điện thì những chi tiết về đặc tính kỹ thuật càng gần với qui định trên càng tốt.
11. Cường độ ánh sáng của các đèn không phải là đèn điện
Cường độ ánh sáng của đèn không phải là đèn điện trong chừng mực có thể được phải phù hợp với những hệ số đã ghi rõ trong bảng nêu ở mục 8 Phụ lục này.
12. Đèn điều động
Không phụ thuộc vào những qui định tại khoản k mục 2 Phụ lục này, tín hiệu đèn điều động nêu tại khoản 2 Điều 34 của Thông tư này phải được đặt trong cùng mặt phẳng dọc như đèn cột hoặc các đèn cột và nếu thực tế cho phép đèn điều động này phải đặt cao hơn đèn cột trước ít nhất là 2 mét theo chiều thẳng đứng. Trường hợp tàu thuyền chỉ phải mang một đèn cột thì đèn điều động nếu có phải đặt ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất cách đèn cột theo chiều thẳng đứng một khoảng ít nhất là 2 mét.
13. Tàu cao tốc
a) Đèn cột của tàu cao tốc, trong mối tương quan với chiều rộng tàu, có thể bố trí ở độ cao thấp hơn qui định tại điểm 1 khoản a mục 2 Phụ lục này, miễn rằng góc đáy của tam giác cân được hình thành bởi các đèn mạn và đèn cột khi nhìn trên hình chiếu đứng không nhỏ hơn 270.
b) Trên tàu cao tốc có chiều dài từ 50 mét trở lên, khoảng cách thẳng đứng giữa đèn cột trước và đèn cột chính (đèn cột sau) là 4,5 mét như qui định tại điểm 2 khoản a mục 2 Phụ lục này có thể được thay đổi miễn rằng, khoảng cách đó không nhỏ hơn giá trị được tính theo công thức sau:
(a+17Ψ)C | y= +2 |
1000 |
Trong đó:
y - Độ cao của đèn cột chính so với đèn cột trước, mét;
a - Độ cao của đèn cột trước so với đường nước đầy tải, mét;
Ψ - Độ chúi tại mớn nước đầy tải, độ;
c - Khoảng cách ngang giữa các đèn cột, mét.
14. Sự chấp thuận
Cấu tạo các đèn và các dấu hiệu cũng như sự bố trí các đèn trên tàu thuyền phải thoả mãn yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Quốc gia mà tàu thuyền mang cờ quốc tịch.
11. Câu hỏi pháp lý khác liên quan đến tàu thuyền trên biển
11.1 Tàu thuyền hành trình trong hệ thống phân luồng phải tuân thủ quy định gì?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư 19/2013/TT-BGTVT, tàu thuyền hành trình trong hệ thống phân luồng phải:
a) Đi theo đúng tuyến đường giao thông đã quy định và theo đúng hướng đi chung quy định ở tuyến đường đó;
b) Trong chừng mực có thể được, giữ hướng đi cách xa đường phân cách hoặc dải phân cách của hệ thống phân luồng;
c) Theo quy định chung, phải đi vào hoặc rời hệ thống phân luồng ở hai đầu hệ thống phân luồng, nhưng khi tàu thuyền phải đi vào hoặc rời từ mỗi phía trong giới hạn của hệ thống phân luồng, thì phải đi theo hướng tạo với hướng đi chung một góc càng bé càng tốt.
11.2 Tàu thuyền được nhường đường phải hành động như thế nào?
Theo quy định tại Điều 17 Thông tư 19/2013/TT-BGTVT, hành động của tàu thuyền được nhường đường theo nguyên tắc như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc chung
a) Khi một tàu thuyền được một tàu thuyền khác nhường đường cho mình, phải giữ nguyên hướng đi và tốc độ;
b) Khi xét thấy tàu thuyền phải nhường đường đã không hành động phù hợp, thì tàu thuyền được nhường đường có thể tự mình điều động để tránh đâm va.
Thứ hai, khi tàu thuyền được nhường đường giữ nguyên hướng đi và tốc độ nhận thấy đang ở rất gần tàu thuyền kia và không thể tránh khỏi nguy cơ đâm va nếu chỉ dựa vào sự điều động của tàu thuyền kia, thì tàu thuyền được nhường đường cũng phải có biện pháp tốt nhất để điều động tàu mình tránh sự đâm va.
Thứ ba, một tàu thuyền máy đang điều động để tránh va với một tàu thuyền máy khác đang cắt hướng đi của mình trong trường hợp xét thấy tàu thuyền phải nhường đường đã không hành động phù hợp, thì tàu thuyền được nhường đường có thể tự mình điều động để tránh đâm va, nếu hoàn cảnh cho phép, không được đổi hướng đi về phía bên trái nếu tàu thuyền kia đang ở bên mạn trái của mình.
Thứ tư, không miễn trừ trách nhiệm cho tàu thuyền có nghĩa vụ nhường đường cho tàu thuyền khác.
11.3 Khi tàu thuyền buồm đến gần nhau có nguy cơ đâm va thì phải hành động như thế nào?
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 12 Thông tư 19/2013/TT-BGTVT, Khi hai tàu thuyền buồm đi đến gần nhau có nguy cơ đâm va xảy ra thì một trong hai tàu thuyền này phải nhường đường tàu thuyền kia theo những quy định sau đây:
a) Khi hai tàu thuyền ăn gió ở hai mạn khác nhau thì tàu thuyền ăn gió ở mạn trái phải tránh đường cho tàu thuyền ăn gió ở mạn phải;
b) Khi cả hai tàu thuyền ăn gió cùng một mạn thì tàu thuyền đi trên gió phải tránh đường cho tàu thuyền đi dưới gió;
c) Nếu tàu thuyền ăn gió mạn trái nhìn thấy một tàu thuyền khác ở phía trên gió nhưng không thể xác định được chính xác tàu thuyền ấy ăn gió mạn trái hay mạn phải thì phải nhường đường cho tàu thuyền đó.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay tới số: 1900 6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.