1. Một số vấn đề chung về nhân quyền

        Ý thức về nhân quyền và việc thực hiện nhân quyền là một quá trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử phát triển của loài người và giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp, qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại.

        Khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dưới dạng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống... Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi là con người, không có và không được thừa nhận các quyền con người. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là người đầu tiên nêu ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người, “quyền tư hữu thiêng liêng”. Lần đầu tiên các quyền con người được chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp 1789, Tuyên ngôn cộng sản 1848... Tuy vậy giai cấp tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột. Cách mạng tháng 10 Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con người: đó là các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới 2, các nước XHCN đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản như bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, đưa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về nhân quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người, nội dung các quyền con người tiếp tục phát triển. Theo phương pháp tiếp cận lịch sử, các quyền con người có thể được chia thành ba thế hệ, thể hiện sự phát triển của khái niệm quyền con người qua các giai đoạn lịch sử, như sau:

        Thế hệ 1: Các quyền cá nhân trong lĩnh vực dân sự, chính trị, các quyền bình đẳng và tự do cá nhân.

        Thế hệ 2: Các quyền cá nhân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá.

        Thế hệ 3: Các quyền tập thể như quyền dân tộc cơ bản, tự quyết, bình đẳng giữa các dân tộc và quốc gia; quyền phát triển, quyền thông tin, quyền được sống trong hoà bình, trong  môi trường lành mạnh...

        Những tiến bộ trong việc thực hiện nhân quyền là thành quả đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống đế quốc, thực dân và của nhân dân lao động chống sự bóc lột của phong kiến, tư bản.

2. Sự hình thành của pháp luật quốc tế về nhân quyền

Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, một số tổ chức quốc tế được thành lập đã thông qua một số điều ước quốc tế nhằm bảo vệ các cộng đồng thiểu số, xóa bỏ chế độ nô lệ, cải thiện tình trạng ốm đau và thương xong trong các đợt xung đột vũ trang, bảo vệ trẻ em trong hoàn cảnh chiến tranh và thoát khỏi sự bóc lột (lao động, kinh tế, tình dục), đồng thời đưa ra các chuẩn mực quốc tế về lao động trẻ em. Năm 1924, Hội Quốc Liên thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em – văn kiện pháp lý đầu tiên đưa ra chuẩn mực quốc tế về các quyền con người của trẻ em.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) kết thúc. Những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm chấm rứt hành động tàn bạo và các hành động diệt chủng của Chủ nghĩa phát xít, nhu cầu liên kết lại để bảo vệ hòa bình và nhân phẩm con người đã dẫn tới sự ra đời của Liên Hợp Quốc – với cam kết bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người.

Từ đây, vấn đề tôn trọng và bảo vệ các quyền tư do cơ bản của cong người đã chính thức đặt trên nền tảng của Hiến chương Liên hợp quốc và luật hiện đại, mở đầu cho sự hình thành ngành luật quốc tế về quyền con người.

Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (UDHR) được Đại hội đồng Liên hiện quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 – là thỏa thuận pháp lý đầu tiên về quyền con người, được các quốc gia cùng nhau xây dựng, dựa trên việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và bất di, bất dịch của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Sau 18 năm kể từ khi UDHR được thông qua, hai công ước là Công ước quốc tế về những quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 16  tháng 12 năm 1966, có hiệu lực từ năm 1976.

Bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, hai công ước quốc tế về quyền con người năm 1966, Nghị định thư bổ sung Công ước quốc tế về những quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Nghị định thư bổ sung Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá (ICESCR) được cộng đồng quốc tế thừa nhận là Bộ luật quốc tế về quyền con người - xương sống của luật quốc tế về quyền con người.

3. Nội dung quyền trong pháp luật quốc tế

3.1. Quyền dân sự, chính trị

  • Quyền sống
  • Quyền bầu cử, ứng cử
  • Quyền không bị tra tấn, đối xử dã man, tàn nhẫn hay xúc phạm nhân phẩm
  • Quyền tự do và an ninh cá nhân
  • Quyền được xét xử bằng một tòa án độc lập, không thiên vị
  • Quyền được khắc phục, bồi thường về pháp lý khi bị vi phạm
  • Quyền được bảo vệ đời tư
  • Quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú
  • Quyền có quốc tịch
  • Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo
  • Quyền tự do ngôn luận và bày tỏ chính kiến
  • Quyền tự do lập hội, hội họp

3.2. Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

  • Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng, hợp lý
  • Quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi
  • Quyền được hưởng an sinh xã hội
  • Quyền được thành lập và gia nhập công đoàn
  • Quyền được bảo vệ của gia đình, bảo hộ đặc biệt đối với các bà mẹ trước và sau sinh con
  • Quyền có mức sống bảo đảm
  • Quyền được chăm sóc sức khỏe
  • Quyền được giáo dục
  • Quyền sở hữu tài sản

3.3. Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương

Các nhóm xã hội dễ bị tổn thương (vulnerable groups) là khái niệm dùng để chỉ các cộng đồng, nhóm người có vị thế về chính trị, kinh tế hoặc xã hội thấp hơn đa số, khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm quyền. Bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác.

Các nhóm người dễ bị tổn thương gồm: Phụ nữ, Trẻ em, Người tị nạn, Người bị mất nơi ở trong nước (VD: do việc xây dựng các công trình thủy lợi), Thanh niên, Người không có quốc tịch (những người từ CPC về), Người thiểu số, Người bản địa, Người lao động di cư, Người khuyết tật, Người cao tuổi, Người có HIV/AIDS...

4. Các văn bản về nhân quyền

Bên cạnh các văn kiện trên, các công ước, tuyên bố về quyền con người và liên quan đến quyền con người được Liên hiệp quốc thông quan từ khi thành lập (1945) đến nay như sau:

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

Luật điều ước:

- Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)

- Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (ICESCR)

- Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc(CERD)

- Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục khác (CAT)

- Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)

- Công ước quyền trẻ em (CRC)

- Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và thành viên gia đình họ (CMW)

- Công ước về các quyền của người khuyết tật

- Công ước quốc tế về bảo vệ những người bị cưỡng bức mất tích

Tuyên bố:

- Tuyên bố Bắc kinh và cương lĩnh hành động

- Tuyên bố về bạo lực với phụ nữ

- Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động, 1993. Tuyên bố này được Liên Hợp Quốc thông qua.

- Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, 2000

Nguyên tắc

- Hành đồng để chống lại sự miễn trừ

- Quyền được có biện pháp khắc phục và đền bù

Các công ước của ILO

- Công ước ILO số 100 (về trả lương công bằng)

- Công ước ILO số 111 ( Công ước về phân biệt đối xử (trong việc làm và nghề nghiệp)

Các văn bản khác:

- Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 về huỷ bỏ án tử hình, 1989

- Công ước chống phân biệt đối xử trong giáo dục 1960

- Công ước về Quyền trẻ em 1989

- Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, 2000.

- Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em về việc lôi cuốn trẻ em tham gia xung đột vũ trang, 2000.

- Công ước về cấm và hành động ngay để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999

- Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao động di trú và các thành viên của gia đình họ 1990

- Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, 2000

- Công ước về Nô lệ, 1926

- Nghị định thư sửa đổi Công ước về Nô lệ 1926

- Công ước bổ sung về xoá bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, các thể chế và tập tục khác tương tự chế độ nô lệ, 1956

- Công ước về trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm người khác, 1949

- Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, 2000.

- Công ước về vị thế của người không quốc tịch, 1954

- Công ước về vị thế của người tị nạn, 1951

- Nghị định thư của Công ước về vị thế của người tị nạn, 1967

- Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội ác tra tấn, tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại

- Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạp hay hạ thấp nhân phẩm, 1984

- Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, 1948

- Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại, 1968

- Quy chế Roma về Toà án Hình sự quốc tế, 1998

- Các Quy tắc chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân, 1955

- Các nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân, 1990

- Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988

- Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do

- Các bảo đảm nhằm bảo vệ quyền của những người đang phải đối mặt với án tử hình, 1984

- Các quy tắc hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979

- Các nguyên tắc cơ bản về sử dụng vũ lực và súng của cán bộ thi hành pháp luật, 1990

- Các Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về các biện pháp không giam giữ (Các Quy tắc Tokyo), 1990

- Các nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp với người chưa thành niên (Các Quy tắc Bắc Kinh), 1985

- Các hướng dẫn về làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự, 1971

- Các hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (Các hướng dẫn Ri-át), 1990

- Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của toà án, 1985

- Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, 1990

- Các hướng dẫn về vai trò của công tố viên, 1990

- Các nguyên tắc của Liên Hợp Quốc về người cao tuổi, 1991

- Tuyên bố Cam kết về HIV/AIDS, 2001

- Các Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người, 1996

- Tuyên bố về quyền của những người không phải công dân của quốc gia nơi họ đang sinh sống, 1985

- Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, 1992.

5. Quan điểm, đường lối của Đảng về nhân quyền

        Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và sau đó là Đảng Cộng sản Đông Dương đã từng bước xây dựng và hoàn thiện đường lối cách mạng nước ta. Dựa trên tinh thần cơ bản của bản Chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua vào đầu năm 1930, đường lối cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng về sau đã luôn luôn thấm đượm tinh thần dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Đó là đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, trong đó độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi. Trong giai đoạn 1936-1939, vấn đề dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân nguyện… được đề cao nhưng vẫn luôn gắn liền với hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Những vấn đề về nhân quyền và dân quyền giờ đây được phản ánh thông qua các cuộc đấu tranh đòi tự do ứng cử và bầu cử, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do nghiệp đoàn… Đây cũng là một bước chuẩn bị quan trọng để tiến lên giành những quyền dân tộc cơ bản và thực thi những quyền ấy trong những năm 1939-1945.

        Ngày 02-9-1945 trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân thủ đô thuộc đủ các tầng lớp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thể quốc dân và nhân dân thế giới rằng: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Tuyên ngôn độc lập trở thành một văn kiện cực kỳ quan trọng, một áng “Thiên cổ hùng văn” được viết ra bằng toàn bộ tâm huyết, trí tuệ, tư tưởng nhân văn và ý chí của một con người, đại diện cho một dân tộc đang chiến đấu và sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập chỉ vỏn vẹn có 49 câu, với 1.010 chữ, nhưng lại chứa đựng những nội dung vô cùng to lớn, ý nghĩa vô cùng sâu sắc, toát lên những vấn đề rất căn bản, trong đó có vấn đề về nhân quyền, dân quyền và chân lý: không có gì quý hơn độc lập, tự do.

        Mở đầu Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời nói bất hủ, mở đầu cho Tuyên ngôn độc lập không chỉ là tư tưởng lớn về độc lập, tự do của dân tộc, mà còn là tư tưởng cơ bản về quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.

        Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người luôn hòa quyện với nhau và luôn nhất quán trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh của Người. Con đường cách mạng mà Người đã chọn, cuộc cách mạng mà Người lãnh đạo, những chủ trương, chính sách mà Người đề ra và cả những việc làm rất cụ thể của Người, tất thảy đều nhằm bảo vệ con người.

        Trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở kế thừa thành tựu trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế, nhận thức và đường lối chỉ đạo của Đảng ta về quyền con người tiếp tục có nhiều bước phát triển mới.

        Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) đã đề ra mục tiêu: xây dựng một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công; có điều kiện phát triển toàn diên cá nhân. Nhận thức và quan điểm về quyền con người đã được Đảng, Nhà nước ta phát triển và hoàn thiện dần trong tiến trình đổi mới. Đại hội IX (năm 2001) của Đảng khẳng định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”.

        Ngoài các văn kiện trên, Nghị quyết các Đại hội của Đảng và trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12/7/1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 2/12/2004, của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20/7/2010, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X,… cũng đã thể hiện sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng ta về vấn đề quyền con người.