Mục lục bài viết
1, Các trường hợp hủy hợp đồng theo CISG
Các trường hợp hủy hợp đồng được quy định từ điều 49 trong chương II về nghĩa vụ của người bán, theo đó:
-
Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng:
+ Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, hoặc:
+ Trong trường hợp không giao hàng: Nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này.
+ Có thể hủy hợp đồng do nhận thấy hàng hóa không đúng, không phù hợp với hợp đồng
+ hủy hợp đồng khi hàng hóa không đúng, dù đã thông báo trong khoảng thời gian hợp lý nhưng người bán vẫn không có ý định hay động thái để sửa chữa, bổ sung, thay thế hàng hóa hỏng, không phù hợp với hợp đồng.
+ khi hàng hóa bên bán cung cấp không phù hợp, không thể hoàn trả lại
CÁC TRƯỜNG HỢP KHÔNG HOÀN TRẢ:
+ Hàng không có khả năng trả lại hoặc đã bị thay đổi tính chất so với ban đầu không phải do lỗi của người mua
+ Toàn bộ/một phần hàng đã bị mất giá trị hoặc hư hỏng theo kết quả của việc kiểm tra hàng hóa sau khi nhận
+ Toàn bộ/một phần hàng đã bị bán theo thủ tục TM thông thường hoặc đã được sử dụng.
Bên cạnh đó, trong phần về nghĩa vụ của người mua cũng có các trường hợp hủy hợp đồng:
- Người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng:
+ Nếu sự kiện người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng, hoặc.
+ Nếu người mua không thi hành nghĩa vụ trả tiền hoặc không nhận hàng trong thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận cho họ chiếu theo khoản 1 điều 63 hay nếu họ tuyên bố sẽ không làm việc đó trong thời hạn ấy.
Tóm lại, trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, khi một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng, bên còn lại có quyền hủy bỏ hợp đồng. Có thể thấy, vi phạm cơ bản là một trong các trường hợp để một bên có thể hủy bỏ hợp đồng. Theo Điều 25 CISG, “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu qủa đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Vấn đề ở đây là, liệu có phải khi xảy ra vi phạm cơ bản, việc hủy bỏ hợp đồng của bên bị vi phạm sẽ đương nhiên có hiệu lực? Theo CISG, “Một lời tuyên bố về việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được thông báo cho bên kia biết” – điều 26 CISG.
-
Hậu quả pháp lý của việc hủy hợp đồng: Việc huỷ hợp đồng giải phóng các bên khỏi những nghĩa vụ của mình được quy định tại hợp đồng, trừ những khoản bồi thường mà bên vi phạm phải chịu có thể có. Việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến hiệu lực của các quy định trong hợp đồng về giải quyết tranh chấp hay liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp hợp đồng bị hủy.
Khi hợp đồng bị hủy, bên nào đã thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ hợp đồng có thể đòi bên kia hoàn lại những gì đã được giao hay đã được thanh toán khi thực hiện hợp đồng.
2. Vi phạm cơ bản hợp đồng là gì?
CISG quy định thế nào là vi phạm hợp đồng cơ bản tại điều 25 như sau: “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.”
Theo điều luật trên, vi phạm cơ bản là sự vi phạm được xác định dựa trên những yếu tố sau: (1) Phải có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; (2) Sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đó phải dẫn đến hậu quả là một bên mất đi điều mà họ chờ đợi (mong muốn có được) từ hợp đồng; (3) Bên vi phạm hợp đồng không thể nhìn thấy trước được hậu quả của sự vi phạm đó.
- Các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản của hợp đồng:
- Có sự vi phạm hợp đồng: Yếu tố quan trọng nhất để xác định mức độ vi phạm của khái niệm “vi phạm cơ bản” chính là sự tồn tại của sự vi phạm nghĩa vụ, có thể phát sinh từ hợp đồng (như thoả thuận của các bên) hoặc từ các quy định của CISG (Ví dụ: Điều 46.2 CISG). Khi không có sự vi phạm nghĩa vụ, Điều 25 sẽ không thể được viện dẫn và áp dụng.
- Có thiệt hại đáng kể: Vi phạm hợp đồng luôn luôn phát sinh những thiệt hại nhưng thiệt hại lại không luôn luôn tồn tại khi có vi phạm hợp đồng. Trong thực tế, không hiếm trường hợp có vi phạm hợp đồng nhưng không có thiệt hại. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 25 CISG thì thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra là yếu tố bắt buộc, tiên quyết cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và thiệt hại đó phải là đáng kể.
- Khả năng nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm (khả năng tiên liệu): Một vi phạm sẽ không thể bị coi là cơ bản khi bên vi phạm đã không tiên liệu trước được hậu quả đáng kể và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự. Từ đó có thể thấy Điều 25 cũng đòi hỏi cần phải có sự đánh giá về ý thức, suy nghĩ chủ quan của bên vi phạm và đồng thời so sánh với ý thức, kiến thức của một chủ thể trung lập trong việc dự liệu về hậu quả đó trong những điều kiện tương tự. Yêu cầu đánh giá khách quan này là bắt buộc theo yêu cầu của Điều 8.2 CISG.
Công ước Viên không đưa ra định nghĩa về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có thể hiểu là việc một bên giao kết hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc thực hiện không hết nghĩa vụ hợp đồng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài ra, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đáng kể cho bên bị vi phạm. Thế nào là thiệt hại đáng kể?. Công ước Viên cho rằng thiệt hại đáng kể là những thiệt hại làm cho bên bị vi phạm mất đi cái mà họ chờ đợi (mong muốn có được) từ hợp đồng. Công ước Viên không giải thích rõ cái mà người này chờ đợi là gì. Vì vậy, việc xác định mức độ thiệt hại là đáng kể hay không đáng kể sẽ do tòa án (hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp) quyết định căn cứ vào từng trường hợp, từng vụ tranh chấp cụ thể. Ví dụ, phải căn cứ vào giá trị kinh tế của hợp đồng, sự tổn hại về mặt tiền bạc do hành vi vi phạm hợp đồng hoặc mức độ mà hành vi vi phạm hợp đồng gây cản trở đến các hoạt động khác của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, mặc dù hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại cho bên bị vi phạm nhưng hành vi vi phạm hợp đồng đó sẽ không bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng nếu bên vi phạm “không thể nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm đó và người ở vào hoàn cảnh tương tự cũng không thể tiên liệu được”. Chính xác hơn, khả năng nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng là yếu tố cần thiết để xác định hành vi vi phạm đó có phải là một sự vi phạm cơ bản hợp đồng hay không. Khả năng tiên liệu trước được những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra sẽ phụ thuộc vào kiến thức của bên vi phạm về những sự kiện xoay quanh giao dịch như kinh nghiệm, mức độ tinh tế và khả năng tổ chức của bên vi phạm.
3. Các trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng theo quy định của CISG
Ðiều 79.1 CISG:
Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó.
Chưa có một văn bản pháp lý nào có liệt kê đầy đủ về các hiện tượng như thế nào là bất khả kháng. Sự kiện bất khả kháng chỉ xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, không phải do lỗi của bất kì bên tham gia hợp đồng nào, mà xảy ra ngoài ý muốn và các bên không thể dự báo trước được cũng như không thể tránh hay khắc phục được dẫn đến việc không thực hiện, thực hiện không đủ hay thực hiện không đúng với hợp đồng.
Nguyên tắc chung, sự kiện bất khả kháng là các sự kiện được xác định có các đặc điểm như sau:
- Là sự kiện khách quan chỉ xảy ra sau khi kí kết hợp đồng
- Là sự kiện xảy ra không phải do lỗi của các bên tham gia hợp đồng.
- Là sự kiện mà các bên tham gia hợp đồng không thể lường trước hay khống chế được.
Quy định trong CISG về miễn trừ trách nhiệm liên quan đến việc không thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào theo hợp đồng do tình huống bất khả kháng, nếu sự kiện đó thỏa mãn các yếu tố sau ( cả chủ quan lẫn khách quan):
- Mối quan hệ nhân quả giữa tình huống bất khả kháng đó và việc không thực hiện được nghĩa vụ, mối liên hệ này phải là mối liên hệ trực tiếp. thực tiễn của HĐTMQT cho thấy, mối quan hệ này không thể coi là trực tiếp nếu sự kiện bất khả kháng phát sinh sau khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng đã kết thúc. Người vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh mối liên hệ trên.
- Sự miễn trừ trách nhiệm là việc không thể thực hiện được nghĩa vụ. điều kiện này xuất phát từ những quy phạm của luật quốc gia điều chỉnh sự tác động của tình huống bất khả kháng.
- Bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phải thông báo cho phía bên kia về sự xuất hiện trường hợp bất khả kháng trong thời gian hợp lý (theo luật định hoặc theo thỏa thuận)
- Trường hợp bất khả kháng phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận.
Ngoài ra, các trường hợp bất khả kháng có thể được xác định: thiên tai (bão,lũ lụt,dịch bệnh,..); chiến tranh;bãi công; sự cố trong sản xuất; sự cản trở trong vận tải (tai nạn giao thông trầm trọng, quyết định của cơ quan hà nước như đóng cửa biên giới,..).
Tuy nhiên chúng ta phải phân biệt rằng bất khả kháng không phải là hoàn cảnh hardship: tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng nội dung và hậu quả pháp lý của hai sự kiện này là khác nhau. Hardship là điều khoản cho phép các bên có thể điều chỉnh hợp đồng khi có những thay đổi về hoàn cảnh hay điều kiện kinh tế và môi trường gây khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng.
4.Miễn trách nhiệm do lỗi của người thứ ba theo quy định của CISG
Trường hợp miễn trách do lỗi của bên thứ 3 được quy định tại khoản 2 điều 79 CISG. Theo đó, nếu việc bên thứ 3 được nhờ thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng không thể thực hiện được nghĩa vụ của họ dẫn đến hậu quả cho một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình theo hợp đồng thì họ chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
- Chiếu theo quy định tại khoản 1 điều 79 ( có thể coi việc không thực hiện nghĩa vụ của bên thứ 3 là hiện tượng bất khả kháng cho một bên thực hiện hợp đồng và từ đó có thể miễn trách nhiệm cho họ) hoặc chính bản thân bên vi phạm bị rơi vào trường hợp miễn trách do bất khả kháng theo 79.1 CISG
- Nếu người thứ 3 cũng được miễn trách nhiệm do việc không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng một phần hay toàn bộ là hậu quả trực tiếp của hiện tượng bất khả kháng theo quy định tại khoản 1 điều 79 CISG.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, hợp đồng không chỉ được ký kết giữa bên bán và bên mua mà còn có sự tham gia của nhiều bên liên quan được gọi là bên thứ ba. Trường hợp bên thứ ba gặp khó khăn, ngay lập tức ảnh hưởng tới việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; bên cạnh đó, khi một bên vi phạm hợp đồng, thường xảy ra tình huống họ viện dẫn lỗi của bên thứ ba tham gia thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng để hưởng miễn trách nhiệm. Thuật ngữ “bên thứ ba” không được định nghĩa trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào. Trong dự thảo của nhóm công tác UNCITRAL năm 1975 mô tả người thứ ba như là một “subcontractor”. Ủy ban đã thay bằng thuật ngữ“a person, whom”- Người ràng buộc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng. Báo cáo tiếp tục khẳng định bên vi phạm sẽ không được miễn trách nhiệm vì hành vi vi phạm của bên thứ ba, khi bên vi phạm tham gia thực hiện bất kỳ phần nào trong hợp đồng đó. Điều này đồng nghĩa với việc là bên thứ ba phải là một bên độc lập. Tính độc lập thể hiện ở chỗ bên thứ ba và các bên ràng buộc nhau về quyền và nghĩa vụ bởi một hợp đồng song vụ có đền bù.
Qua thực tiễn áp dụng, bên thứ ba thông thường được xác định là các nhà sản xuất, nhà cung cấp, nhà thầu phụ, công ty Logistics, ngân hàng…đồng thời, bên thứ ba phải là bên độc lập và có quan hệ hợp đồng với ít nhất một bên hợp đồng. Cần chú ý rằng, nhân viên hay người làm công của một bên không được coi là bên thứ ba theo quy định của pháp luật quốc tế.
Trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi bên thứ ba tham gia thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng lần đầu tiên được ghi nhận trong CISG. Điều 79.2 CISG quy định: “Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
- Được miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.
- Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu quy định của khoản trên được áp dụng cho họ”
CISG không đưa ra khái niệm cũng không liệt kê bất cứ sự kiện nào được xem là trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi của bên thứ ba tham gia thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng mà chỉ đưa ra các dấu hiệu để xác định. Theo đó, có hai điều kiện bên vi phạm phải đồng thời đáp ứng đó là: (1) Bên vi phạm rơi vào trường hợp miễn trách chiếu theo Điều 79.1; (2) Bên thứ ba cũng được miễn trách khi áp dụng các điều kiện tại Điều 79.1 cho bên đó. Nói cách khác việc bên thứ ba vi phạm hợp đồng phải đồng thời cấu thành một trường hợp miễn trách đối với bên vi phạm theo quy định tại Điều 79.1 và bản thân bên đó cũng gặp trường hợp được miễn trách chiếu theo điều trên.
Từ đây một câu hỏi đặt ra là CISG quy định như thế nào về trường hợp miễn trách nhiệm theo 79.1?
Điều 79.1 CISG quy định: “Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó”. CISG sử dụng khái niệm “an impediment beyond his control” nghĩa là trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát. Đây chính là trường hợp miễn trách nhiệm do bất khả kháng: sự kiện mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể, nằm ngoài sự kiểm soát của các bên. Nói cách khác, bất khả kháng hay trở ngại khách quan sẽ xảy ra mà không bị tác động của bên nào làm cho bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. CISG không liệt kê các trường hợp cụ thể được xem là bất khả kháng nhưng đã nêu ra những dấu hiệu nhận biết sự kiện nào là sự kiện nằm ngoài sự kiểm soát của các bên. CISG đề cập tới ba dấu hiệu cơ bản (1) Sự kiện xảy ra ngoài tầm kiểm soát của các bên; (2) sự kiện không lường trước tại thời điểm ký kết hợp đồng; (3) không thể tránh hoặc không thể khắc phục được hậu quả. Như vậy, bên vi phạm muốn hưởng chế định miễn trách phải chứng minh rằng việc không thực hiện hay thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng của mình là do trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát đồng thời phải chứng minh rằng trở ngại đó hoàn toàn không thể đoán trước vào lúc ký kết hợp đồng và không thể khắc phục hậu quả mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép.
Như vậy, miễn trách nhiệm do lỗi của bên thứ ba tham gia thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng theo CISG là trường hợp bên vi phạm hợp đồng không trực tiếp gặp trở ngại, song vẫn có quyền yêu cầu được miễn trách nhiệm vì bên thứ ba có quan hệ với bên vi phạm gặp trở ngại khách quan. Bản chất của trường hợp này chính là miễn trách nhiệm do gặp bất khả kháng.
Như vậy, để điều kiện (1) đáp ứng, hành vi vi phạm của bên thứ ba trong các vụ tranh chấp trên phải cấu thành một bất khả kháng. Điều này đồng nghĩa với việc bên vi phạm không thể biết trước, không thể lường trước và yêu cầu phải có ý thức khắc phục hậu quả của bên thứ ba trong khả năng của mình. Trên thực tiễn hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, việc bên bị vi phạm viện dẫn trường hợp bên thứ ba cấu thành một bất khả kháng là khá phổ biến nhưng các phán quyết của tòa thường không chấp nhận vì cho rằng bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm vì đã chọn nhà cung cấp tồi; mặt khác, thực tế trong mọi trường hợp, anh ta hoàn toàn có thể tìm kiếm một bên thứ ba khác để thay thế phần nghĩa vụ hợp đồng vi phạm. Trường hợp ngoại lệ chỉ xảy ra khi nhà cung cấp là độc quyền, hoặc là nhà cung cấp duy nhất. Lúc này việc tìm kiếm nhà cung cấp thay thế là bất khả thi và được xem như là một sự kiện bất khả kháng đối với bên vi phạm. Tuy nhiên, trường hợp miễn trách nhiệm do người thứ ba vẫn chưa được áp dụng với bên vi phạm nếu chưa đáp ứng điều kiện (2). Nghĩa là bản thân bên thứ ba phải trực tiếp gặp bất khả kháng. Trên thực tế, nếu bên thứ ba vi phạm hợp đồng với bên vi phạm thì sẽ giải quyết theo hợp đồng giữa bên vi phạm với bên thứ ba. Điều kiện (2) chỉ xảy ra khi chính bên thứ ba gặp bất khả kháng khiến họ không thể thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đối với bên vi phạm. Trường hợp này, bên vi phạm không nhận được khoản bồi thường nào.Việc CISG quy định như vậy là có cơ sở vì nếu quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng thì vừa trái nguyên tắc suy đoán lỗi vừa mất công bằng bởi bên thứ ba gặp sự kiện bất khả kháng đã được miễn trách nhiệm theo hợp đồng giữa họ với bên vi phạm còn bên vi phạm lại phải chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm.
Một vấn đề cần lưu ý là việc người thứ ba gặp bất khả kháng ở thời điểm nào thì bên vi phạm được miễn trách nhiệm. Thực tế cho thấy, bên thứ ba có thể gặp bất khả kháng trước hoặc sau khi hai bên ký kết hợp đồng.Thứ nhất, nếu sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với bên thứ ba trước khi hai bên ký kết hợp đồng thì bên thuê bên thứ ba thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng sẽ biết hoặc phải biết rõ về bất khả kháng. Theo đó, rõ ràng bên vi phạm sẽ không được hưởng miễn trách nhiệm do bản thân họ có thể tránh được hậu quả đó cũng như có thể tính toán được trở ngại vào lúc ký kết hợp đồng.Thứ hai, nếu sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với bên thứ ba sau khi hai bên ký kết hợp đồng thì bên vi phạm có quyền được hưởng miễn trách nhiệm. Xét theo nguyên tắc suy đoán lỗi thì bên vi phạm hoàn toàn không có lỗi. Họ không thể tính toán trước được một sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra đối với bên thứ ba trong quá trình thực hiện hợp đồng, do đó bất khả kháng đối với người thứ ba cũng là bất khả kháng đối với người thứ hai.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty luật Minh Khuê