Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự.
- 2. Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
- 2.1. Người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự.
- 2.2. Các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
- 2.3. Miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- 3. Các biện pháp giám sát, giáo dục khi người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong bộ luật hình sự, chế định này sẽ được áp dụng đối với người phạm tội trong những điều kiện nhất định mà Cơ quan tiến hành tố tụng thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhưng vẫn đảm baỏ được tính an ninh trật tự, phòng chống, giáo dục người phạm tội để họ trở thành con người có ích cho xã hội.
miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó. Xét về bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự. Đây là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng do người này có các điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự.
2. Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Theo quy định trong Bộ luật dân sự 2015 thì miễn trách nhiệm hình sự bao gồm hai trường hợp là người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
2.1. Người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự.
Đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là một người có hành vi phạm tội sẽ được xem xét để miễn trách nhiệm hình sự mà không cần có bất kỳ một điều kiện nào khác kèm theo khi có các căn cứ thỏa mãn quy định này.
Các trường hợp đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại Điều 16, khoản 1 Điều 29 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể, phải miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi thuộc các căn cứ sau:
- Khi người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Theo quy định điều 16 Bộ luật hình sự 2015 quy định:
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Đây là trường hợp mà một người đã thực hiện một hành vi được coi là tôi phạm, nhưng trong quá trình tố tụng có sự thay đổi chính sách pháp luật mà hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự.
Trường hợp này được quy định cụ thể tại Tội gián điệp theo quy định khoản 4 Điều 110 Bộ luật hình sự 2015. Theo đó, người đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiềm vụ được giao mà tự thú, thành khẩn khai báo thì đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự.
- Khi có quyết định đại xá.
Đại xá là việc miễn trách nhiệm hình sự đối với một loại tội phạm nhất định. Văn bản đại xá có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản đó xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có án tích. Thẩm quyền đại xá thuộc về Quốc hội và được ban hành nhân dịp những sự kiện trọng đại nhất của đất nước.
2.2. Các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Đây là trường hợp không đương nhiên được miễn trách nhiễm hình sự ngoài căn cứ được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự thì đòi hỏi phải có sự đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng về trường hợp nào được miễn, trường hợp nào không được miễn.
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 trong các trường hợp sau đây thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Đây là trường hợp do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa chứ không phải do thay đổi chính sách pháp luật Về lý luận và thực tiễn, đây là trường hợp rất khó xác định. Và có rất nhiều quan điểm khác nhau, Trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất ít áp dụng trường hợp này để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Trường hợp Cũng được coi là do chuyển biến tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa trong trường hợp người phạm tội phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt mà thiếu họ thì nhiệm vụ đó khó hoàn thành, nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã miễn trách nhiệm hình sự cho họ để họ nhận nhiệm vụ đặc biệt đó.
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Không phải bệnh hiểm nghèo nào cũng được miễn trách nhiệm hình sự mà phải kèm thêm điều kiện: không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm. Ở đây có nghĩa là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu giếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm. Ví dụ như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc dẫn cơ quan điều tra đi bắt người đồng phạm đang bỏ trốn, thu hồi tang vật,… Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được coi là tự thú để làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.
Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát hiện, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm.
Người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; thu lại những nguồn nguy hiểm mà họ đã tạo ra cho người khác hoặc những lợi ích khác, trả lại tài sản đã chiếm đoạt…
Lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận thì mới có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Hòa giải giữa người phạm tội với người bị hại chỉ đối với hai loại tội phạm. Đó là tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng (không phân biệt tội phạm do cố ý hay vô ý) gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác.
Tuy nhiên, nếu người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mà cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy không thể miễn được thì cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, đồng thời giải thích cho người bị hại biết vì sao không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội được.
Những trường hợp có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể
Trong một số tội phạm cụ thể, Bộ luật hình sự cũng quy định có thể miễn trách nhiệm hình sự. Cụ thể là:
Người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo dục 2 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (quy định tại khoản 4 Điều 247 Bộ luật hình sự);
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (quy định tại khoản 7 Điều 364 Bộ luật hình sự);
Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (quy định tại khoản 6 Điều 365 bộ luật hình sự);
Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (quy định tại khoản 2 Điều 390 Bộ luật hình sự)
2.3. Miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự và bị áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục được quy định tại Điều 93 (Khiển ttách), Điều 94 (Hoà giải tại cộng đồng) hoặc Điều 95 (Giáo dục tại xã, phường, thị trấn) khi có đủ 04 điều kiện sau:
Người dưới 18 tuổi phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 không quy định cụ thể tình tiết giảm nhẹ được nêu tại khoản 2 là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản nào của Điều 51 BLHS nên phải hiểu các tình tiết giảm nhẹ được nêu tại điều này là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Người dưới 18 tuổi phạm tội đã tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả do hành vi phạm tội gây ra;
- Người phạm tội và tội phạm được thực hiện phải thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134,141, 171,248,249,250,251 và 252 của Bộ luật này;
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150,151, 168,171,248,249,250, 251 và 252 của Bộ luật này;
+ Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
- Người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý.
3. Các biện pháp giám sát, giáo dục khi người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
về bản chất, đây là các biện pháp mang tính giáo dục, phòng ngừa xã hội được áp dụng nhằm mục đích chính là giúp cho người phạm tội nhận rõ được lỗi lầm, có thái độ ăn năn hối cải, khắc phục sai phạm. Trước khi áp dụng biện pháp này, người có thẩm quyền phải ra quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho họ.
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định 03 biện pháp có thể được cân nhắc áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là khiển trách; hoà giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Khiển trách
Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường họp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này (điểm a khoản 1 Điều 93);
- Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án (điểm b khoản 1 Điều 93).
Hoà giải tại cộng đồng
Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
+ Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường họp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.