Khách hàng: Kính thưa Luật sư, thể chế quan liêu là gì? Theo ông Maximilian Karl Emil Weber quan điểm như thế nào vè vấn đề này? Đặc điểm thể chế quan liêu?

Cảm ơn!

Trả lời:

1. Thể chế quan liêu là gì?

Thiết chế hay còn gọi là thể chế xã hội là một tập hợp các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội quan trọng. đây là khái niệm quan trọng và được dùng rộng rãi trong xã hội học. Cũng giống như nhiều khái niệm khác của xã hội học, nội hàm của thiết chế xã hội cũng chưa được xác định một cách rõ ràng. Sự nhầm lẫn phổ biến nhất là việc đồng nhất thiết chế xã hội với một nhóm thực, tổ chức thực nào đó. Lý do của sự nhầm lẫn này là mặc dù khái niệm thiết chế xã hội rất trừu tượng, nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình (tương tự như nhóm xã hội, tổ chức xã hội).

Thực chất nhóm xã hội, tổ chức xã hội là một tập hợp người được liên kết với nhau bởi các dạng quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội này được hình thành từ những tương tác thường xuyên, ổn định, lâu dài, có định hướng. Trong quá trình tương tác này các khuôn mẫu hành vi, vai trò được thiết kế hóa, tức là biến thành các thiết chế. Như vậy các nhóm, các tổ chức hay bản thân từng cá nhân chỉ là như những tập hợp người thực hiện các thiết chế mà thôi, chứ không phải là chính thiết chế.

Mặt khác, quan liêu theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là “bệnh giấy tờ, bệnh hình thức, không thực tế, là xa cách quần chúng, không theo đường lối quần chúng, làm không đúng chính sách của Chính phủ và của đoàn thể”.

Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không đi sâu đi sát vào công việc, việc gì cũng không nắm vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung.

Như vậy, bản chất của quan liêu chính là sự tha hóa quyền lực của cơ quan công quyền. Sự tha hóa này biểu hiện chủ yếu ở bên ngoài là hiện tượng giấy tờ, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian và ở bên trong là tâm lý hám danh, chạy theo chủ nghĩa thành tích, chạy theo địa vị, chức quyền và lợi dụng địa vị chức quyền, lợi dụng sơ hở của cơ chế quản lý để mưu cầu lợi ích cá nhân dẫn tới lạm quyền và lộng quyền.

2. Maximilian Karl Emil Weber

Maximilian Karl Emil Weber là một nhà xã hội học, nhà sử học, nhà luật học và nhà kinh tế chính trị người Đức, người được coi là một trong những nhà lý thuyết quan trọng nhất về sự phát triển của xã hội phương Tây hiện đại. Ý tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến lý thuyết xã hội và nghiên cứu xã hội. Mặc dù được công nhận là một trong những cha đẻ của xã hội học, cùng với Auguste Comte và Émile Durkheim, Weber chưa bao giờ thừa nhận mình như một nhà xã hội học, mà là một nhà sử học.

Khác với Émile Durkheim, Weber không tin vào những lời giải thích đơn nguyên, thay vào đó đề xuất rằng đối với bất kỳ kết quả nào cũng có thể có nhiều nguyên nhân. Do đó, ông là người đề xướng phương pháp luận chống chủ nghĩa thực chứng, lập luận cho việc nghiên cứu hành động xã hội thông qua các phương pháp diễn giải (chứ không phải theo chủ nghĩa kinh nghiệm), dựa trên sự hiểu biết về mục đích và ý nghĩa của các cá nhân gắn với hành động của chính họ. Mối quan tâm chính của Weber là tìm hiểu các quá trình hợp lý hóa, thế tục hóa và "sự biến đổi", mà ông cho là kết quả của một cách nghĩ mới về thế giới, liên kết các quá trình đó với sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản và nền văn minh hiện đại.

Ông Weber được biết đến nhiều nhất với luận án kết hợp xã hội học kinh tế và xã hội học tôn giáo, nhấn mạnh tầm quan trọng của những ảnh hưởng văn hóa gắn liền với tôn giáo như một phương tiện để hiểu về nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản (trái ngược với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx).

Đầu tiên Weber trình bày chi tiết hơn lý thuyết của mình trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1905), ông đã cho rằng Đạo Tin lành là một trong những "mối quan hệ tự chọn" liên quan đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản theo định hướng kinh tế thị trường và nhà nước hợp pháp trong thế giới phương Tây. Lập luận việc thúc đẩy chủ nghĩa tư bản là nguyên lý cơ bản của đạo Tin lành, Weber cho rằng tinh thần của chủ nghĩa tư bản vốn có trong các giá trị tôn giáo của đạo Tin lành.[8] Đạo đức Tin lành đã sớm hình thành các cuộc khám phá rộng lớn hơn của Weber về tôn giáo thế giới, sau đó ông đã xem xét các tôn giáo của Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như Do Thái giáo cổ đại, đặc biệt liên quan đến các hệ quả kinh tế khác nhau của chúng và sự phân tầng xã hội. Trong một tác phẩm lớn khác, "Politics as a Vocation", Weber đã định nghĩa "nhà nước" là một thực thể tuyên bố thành công "độc quyền sử dụng vũ lực hợp pháp trong một lãnh thổ nhất định". Ông cũng sẽ là người đầu tiên phân loại quyền lực xã hội thành các hình thức riêng biệt: lôi cuốn, truyền thống và hợp pháp. Trong số đó, phân tích của Weber về bộ máy quan liêu nhấn mạnh rằng các thể chế nhà nước hiện đại ngày càng dựa trên cơ sở cơ quan pháp lý hợp lý.

Weber cũng có nhiều đóng góp khác cho lịch sử kinh tế, lý thuyết và phương pháp luận. Phân tích của ông về tính hiện đại và hợp lý hóa đã ảnh hưởng đáng kể đến lý thuyết phê bình liên quan đến Trường phái Frankfurt. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông là một trong những người sáng lập Đảng Dân chủ Đức Tự do. Ông cũng tranh cử không thành công cho một ghế trong quốc hội và làm cố vấn cho ủy ban soạn thảo Hiến pháp Weimar năm 1919. Sau khi mắc bệnh cúm Tây Ban Nha, ông qua đời vì bệnh viêm phổi năm 1920, thọ 56 tuổi.

Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, là một nước tư bản chủ nghĩa phát triển sau, Đức đã nhanh chóng hoàn thành quá trình cách mạng công nghiệp, kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh, các xí nghiệp gia đình với đặc trưng ngành nghề gia truyền bắt đầu chuyển hóa theo hình thái xí nghiệp tư bản chủ nghĩa hiện đại, các tổ chức tư bản lũng đoạn lần lượt xuất hiện.

Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các tổ chức tư bản lũng đoạn đã ngự trị một cách phổ biến trong các ngành công nghiệp chủ yếu như than đá, luyện kim, điện, hóa chất. Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa và việc không ngừng mở rộng quy mô các tổ chức kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có những biện pháp quản lý yà tổ chức kiểu mới.tương xứng, ổn định, có hiệu quả cao. Là một nhà xã hội học, Weber đã say mê nghiên cứu vấn đề này và đề ra một thể chế quản lý hành chính gọi là thể chế hành chính trong “lý tướng” bằng học thức uyên bác và lý luận sâu sắc của ông, khiến cho ông trở thành người có địa vị quan trọng trong lý luận tổ chức cổ điển.

Weber sinh năm 1864 trong một gia đình giàu có ở An pho và sau đó không lâu, chuyển đến Berlin. Năm 1882, ông vào học khoa kinh tế và khoa luật tại trường Đại học Heidelberg, sau đó lại học ở trường Đại học Berlin và trường Đại học c. Trong thời kỳ này, Weber đã tùng phục vụ trong quân đội nên ông hiểu biết khá nhiều về chế độ quản lý trong quân đội Đức. Điều này rất có ích cho việc nghiên cứu lý luận tổ chức của ông sau đó. Năm 1891, ông thi đỗ tiến sĩ với luận văn “Bàn về lịch sử các công ty thương mại trong thếkỷ”.

Từ năm 1892 đến năm 1920, tức là năm ông qua đời, ông đã lần lượt giảng dạy ở trường Đại học Berlin, trường Đại học Hamburg, trường Đại học Heidel­berg, trường Đại học Viên, trường Đại học Mu nich. Các mòn học mà ông giảng dạy là pháp luật, chính trị kinh tế học, xã hội học. Ông là người sáng lập tạp chí “Văn hiến khoa học xã hội và chính trị xã hội” và là cố vấn Chính phủ Đức. Những vấn đề mà óng say sưa nghiên cứu rất nhiều, liên quan đến xã hội học, chính trị học, kinh tếhọc, lịch sử, tôn giáo. Với những kiến giải sâu sác, độc đáo, ông đã trở thành một học giả nổi tiếng củã nước Đức lúc đó. Những ý kiến của ông về quan hệ giữa các tổ chức kinh tế với xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ nhận thức mang lính liên tục về quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản trong các xí nghiệp gia đình ở thê' kỷ XIX với các tổ chức còng nghiệp lớn đang phát triển ở Châu Âu trong thời kỳ của Weber và với các đơn vị của Chính phủ.

3. Thế chế quan liêu theo Weber

Trong cuốn sách “Lý luận về tổ chức kinh tế và xã hội”, Weber đã đưa ra một thể chế quản lý hành chính trong “lý tưởng”, tức là “thể chế quan liêu”.

Khái niệm “thể chế quan liêu” ở đây không phải là khái niệm quan liêu theo nghĩa xấu như nền kinh tế chính trị quan liêu, chủ nghĩa quan liêu, cũng không có nghĩa là thoát ly thực tế, chủ nghĩa giấy tờ, hiệu suất thấp... mà nó có nghĩa rằng tổ chức này tiến hành công việc quản lý thông qua chức vụ hoặc chức vị.

Thể chế quản lý hành chính trong lý tưởng nói đây không phải là thế chế quản lý tốt nhất hoặc phù hợp với nhu cầu nào đó mà là một hình thái tổ chức thuần túy, không có ví dụ thực tế trong hiện thực, dùng để phân biệt nó với các tổ chức mang các hình thái đặc thù, tồn tại trong thực tế. Weber đã từ những tổ chức mang những hình thái đặc thù khác nhau tồn tại trong thực tế đó để rút ra một hình thái tổ chức thuần túy nhằm thuận tiện cho sự phân tích về mặt lý luận.

4. Ưu điểm của thể chế quan liêu

Ông Weber cho rằng, thể chế quan liêu là một tổ chức xã hội chặt chẽ, hợp lý, giống như một cỗ máy.

Nó có những hoạt động chuyên nghiệp thành thạo, có quy định rõ ràng về quyền hạn, trách nhiệm, có quy chế thực hiện nghiêm khắc và quan hệ phục tùng theo cấp bậc, do đó trở thành một hệ thống kỹ thuật quản lý. Weber vạch rõ, thế chế quan liêu dù quan sát theo góc độ kỹ thuật thuần túy cũng có những ưu điểm rõ rệt so với những thể chế quản lý khác trước kia.

Điều đó thể hiện ớ những đặc trưng của nó sau đây:

- Tính chuẩn xác.

- Tính nhạy bén..

- Tính rõ ràng.

- Tinh thông văn bản.

- Tính liên tục.

- Tính nghiêm túc.

- Tính thống nhất.

- Quan hệ phục lùng nghiêm chỉnh.

- Phòng ngừa va chạm.

- Tiết kiệm nhân lực và vật lực.

Do thế chế quan liêu có những ưu điểm kế trên nên có thể vận hành linh hoạt như một cỗ máy.

5. Sự hình thành và xuất hiện thể chế quan liêu theo Weber

Thể chế quan liêu này xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và nền sản xuất xã hội hóa. Weber cho rằng, chính nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa yêu cầu phải không ngừng tiến hành quản lý một cách ti mỉ, không hàm hồ, hơn nữa cấn nhanh chóng làm việc đó.

Ông Weber nói, trong một quốc gia hiện đại, nền chính trị quan liêu là người cai trị thực tế. Đó là điều tất nhiên và không thể tránh được.

Như vậy có nghĩa là, sự phát triển của nền sản xuất xã hội hóa tư bản chủ nghĩa đòi hỏi một thể chế quản lý chặt chẽ hơn để thích ứng với nó. Đó là thể chế quản lý quan liêu.

Trên thực tế, chính sự quản lý của cơ chê quan liêu này đã thực sự thê hiện sự khác biệt của quản lý sản xuất xã hội hóa tư bản chủ nghĩa với quản lý cúa chế độ gia tộc hoặc các phương thức sản xuất khác. Thể chế quan liêu này không những thích hợp trong lĩnh vực kinh tế mà còn sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Weber nói, trong tất cả các lĩnh vực (nhà nước, giáo hội, quân đội, chính đảng, các thực thể kinh doanh, các tập đoàn lợi ích, hiệp hội, trường học, phường hội, bệnh viện), sự phát triển của các hình thái xã hội đều nhất trí với sự phát triển và lớn mạnh của việc quản lý theo thể chế quan liêu.

Do đó, trên ý nghĩa ấy, có thể nói quá trình phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa cũng là quá trình phát triển và phổ cập của thể chế quan liêu. Ngày nay, không ai có thể phú nhận rằng các hoạt động chính trị, văn hóa, giáo dục và tất cả các lĩnh vực xã hội, nếu xa rời thể chế quản lý này đều sẽ lâm vào cảnh hỗn loạn và không thê tiến hành một cách bình thường.