1. Quy định về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Nhiệm kì của viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kì của Quốc hội.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu hội đồng nhân dân.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên có quyền rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố và các quyết định khác theo quy định của pháp luật; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lí kỈ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây ra thiệt hại thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó công tác phải có trách nhiệm bổi thường và người đã gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cáo

- Lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác và xây dựng Viện kiểm sát nhân dân; quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị, điều lệ, quy chế, chế độ công tác áp dụng đối với Viện kiểm sát nhân dân.

- Quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn; quyết định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới; quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

- Trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp, Điều tra viên các ngạch, Kiểm tra viên các ngạch.

- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền.

- Kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh; chỉ đạo việc xây dựng và trình dự án luật, pháp lệnh theo quy định của pháp luật; đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.

- Trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình.

- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tổng kết kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.

- Tham dự các phiên họp của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bàn về việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.

- Kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Quốc hội.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

3. Khái quát sự hình thành và phát kiển của Viện kiểm sát nhân dân

Là một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước, viện kiểm sát nhân dân cùng với tòa án nhân dân được hình thành gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của Nhà nước trong mỗi giai đoạn, góp phần đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chế độ xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 chưa quy định thành lập cơ quan kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước mà thuộc hệ thống cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của cách mạng, Nhà nước đã kịp thời ban hành những văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố.

Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Ngày 03/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành sắc lệnh số 33-A quy định rõ: “Mỗi khi bắt người phải thông bảo ngay cho ông Biện lí biết”. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về chức danh biện lí trong cơ quan công tố (còn gọi là thẩm phán buộc tội). Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán. Điều 15 sắc lệnh quy định: Toà án đệ nhị cấp gồm có: một chánh án, một biện lí, một dự thẩm... Biện lí ngồi ghế công tố viên đọc cáo trạng, sắc lệnh quy định có 7 hạng thấm phán buộc tội tương ứng với 7 hạng thẩm phán xử án. Tiếp theo, trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ấn định thẩm quyền các toà án và phân công giữa các nhân viên trong toà án, trong đó dành Mục c quy định nhiệm vụ của biện lí như quyền khởi tố trạng (Điều 23), quyền kháng cáo (Điều 24), quyền đảm nhận công việc quản trị toà án, điều khiển và kiểm sát công việc của tất cả các nhân viên trong toà từ các vị thẩm phán xét xử (Điều 31).

Năm 1950, Đảng và Nhà nước tiến hành cuộc cải cách tư pháp, thành lập tòa án nhân dân các cấp. Tổ chức và hoạt động của viện công tố có sự thay đổi cơ bản. Điều 15 sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định: “Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc hình Biện lí chỉ chuyển hồ sơ sang phòng dự thẩm điều tra thêm về vụ phạm pháp nếu xét cần. Ngày 07/6/1950, Thủ tướng Chính phủ ra Thông tư số 21/TTg và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 08/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp quy định quyền quản lí, chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban kháng chiến hành chính đối với viện công tố địa phương:

“Uỷ ban các cấp điều khiển viện công tố trong địa hạt mình, Uỷ ban kháng chiến hành chính có thế ra mệnh lệnh cho viện công tố. Đại diện viện công tổ phải tuân theo mệnh lệnh của Uỷ ban”.

Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, viện công tố từng bước được kiện toàn và phát triển. Năm 1959, thực hiện theo tinh thần các văn bản: Nghị quyết ngày 29/9/1958 của Quốc hội khóa I, Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 và Nghị định số 321/TTg ngày 02/7/1959 của Chính phủ, các viện công tố được tổ chức thành hệ thống gồm: Viện công tố trung ương, viện công tố địa phương (tỉnh, huyện, quân sự) trong đó, viện công tố trung ương thuộc Chính phủ có trách nhiệm, quyền hạn ngang như một bộ. Tiếp đó, ngày 31/12/1959, Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp năm 1959. Nếu như do hoàn cảnh lịch sử, Hiến pháp năm 1946 chưa quy định về cơ quan công tố thì Hiến pháp năm 1959 dành Chương VIII (từ Điều 105 đến 108) quy định về viện kiểm sát nhân dân - một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước. Ngày 26/7/1960, Lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà số 20/LCT công bố Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân và ngày 18/4/1962, Chủ tịch nước ban hành Lệnh số 12/LCT về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Kể từ đó đến nay, viện kiểm sát nhân dân trở thành một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và được quy định trong Chương X Hiến pháp năm 1980, 1992. Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Nhà nước trong giai đoạn mới, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi bản Hiến pháp năm 1992. Sau một thời gian lấy ý kiên của nhân dân, bản Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 và Chủ tịch nước công bố ngày 08/12/2013, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014.

Hiến pháp mới dành Chương VUI quy đỉnh về tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân. So với các bản hiến pháp trước đó, những quy định của Chương VUI Hiến pháp năm 2013 có nhiều thay đổi, vừa đảm bảo tính kế thừa, vừa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bộ máy nhà nước.

4. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân hiện nay

– Tại Điều 140 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định:

Hệ thống viện kiểm sát nhân dân gồm:

+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao

+ Viện kiểm sát nhân cấp cao

+ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( gọi là viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh)

+ Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương ( gọi là viện kiểm sát nhân dân cấp huyện)

+ Viện kiểm sát quân sự các cấp

Thành phần của viện kiếm sát các cấp nói chung gồm các chức danh: Viện trưởng, phó viện trưởng, kiểm sát viên, kiểm tra viên; thủ trưởng, phó thủ trưởng, điều tra viên, công chức khác, viên chức và người lao động khác.

– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức có nhiệm kì 5 năm. Viện trưởng viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm. miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.

– Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Phó viện trưởng viện kiếm sát nhân dân cấp cao, cấp tỉnh, cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh.

– Các kiểm sát viên được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

– Điều tra viên chỉ có trong cơ cấu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được hình thành bằng con đường bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ điều tra tội phạm.

– Kiểm tra viên.

– Công chức, viên chức và người lao động khác.

5. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

– Thành phần Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm Viện trưởng, các phó viện trưởng, kiêm sát viên, kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, quyết định những vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Viện trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 65 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014).

– Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao. Thành phần gồm có Viện trưởng, các phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, một số kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao chủ trì phiên họp của Uỷ ban kiểm sát để thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao như việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (Điều 45 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014)

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)