- 1. Nội dung chính của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh
- 1.1 Các mốc quan trọng Mĩ đề ra trong thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh
- 1.2 Thất bại của Mĩ với chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh
- 1.3 Ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong lật đổ Việt Nam cho hóa chiến tranh
- 2. Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ khi thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh
- 2.1 Âm mưu
- 2.2 Thủ đoạn
1. Nội dung chính của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh
Việt Nam hóa chiến tranh được biết đến là một trong số các chiến lược Mĩ thực hiện trong cuộc chiến xâm lược hòa bình tại Việt Nam. Đây được coi là cuộc chiến với mức độ đầu tư cao nhất về cả quy mô, lực lượng và phương tiện chiến đấu của Mĩ với tham vọng đánh bại Việt Nam. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ những khủng hoảng trong kinh tế và chính trị Mĩ sau chuỗi trượt dài thất bại từ chiến tranh cục bộ tại Việt Nam. Bộ phần lớn người dân Mĩ yêu hòa bình phản đối chiến tranh, mất niềm tin vào những nhà cầm quyền dẫn đến chia rẽ nội bộ.
Với mục đích xóa tan khủng hoảng chính trị, Tổng thống Nixon đã vội vã đề ra chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh chỉ sau nửa năm nhậm chức. Năm 1969, Nixon gấp rút cho thực hiện chiến lược. Về bản chất, Việt Nam hóa chiến tranh là sự nối tiếp của âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt". Bởi lẽ nhằm giảm sự hy sinh của quân đội Mĩ mà Nixon chỉ sử dụng Cố vấn và các vị trí cấp cao người Mĩ và tiến hành đánh chiếm bằng quân đội tay sai (phản động Việt Nam hoặc lính đánh thuê).
1.1 Các mốc quan trọng Mĩ đề ra trong thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh
Được xem là "đòn bẩy" tham vọng nuốt trọn Việt Nam, Mĩ xây dựng chiến lược tỉ mỉ, kéo dài qua 3 giai đoạn chính:
- Giai đoạn 1: (dự kiến thực hiện từ năm 1969 đến năm 1972). Giai đoạn đầu cũng là giai đoạn đặc biệt quan trọng khi Mĩ chuyển giao nhiệm vụ tác chiến đường bộ cho quân đội Sài Gòn. Giai đoạn 1 được thực hiện theo 3 bước như sau:
- Bước 1: Chỉ trong 1 năm từ 1969 - 1970, quân Mĩ sẽ tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ là bình định vùng đông dân cư và xóa bỏ căn cứ giải phóng của quân ta. Một số đơn vị chiến đấu của Mĩ rút khỏi Việt Nam nhưng thực tế lại đẩy lùi phạm vi hoạt động của quân Giải phóng. Âm mưu này khiến quân giải phóng chỉ có thể hoạt động với quy mô nhỏ lẻ từ đại đội trở xuống.
- Bước 2: (1970 - 1971) Tiếp đến, gây ảnh hưởng khiến quân giải phóng hoạt động phân tán đồng thời rút dần quân Mĩ về nước.
- Bước 3: (1971 - 1972) Sau khi bình định miền Nam Việt Nam, quân giải phóng Việt Nam không còn hoạt động được tại các vùng biên giới với Lào và Campuchia. Trong khi đó, quân đội Việt Nam Cộng Hòa có ý đồ đánh bại Chính phủ cách mạng Lâm thời. Đồng thời quân đội Mĩ trên bộ cũng sẽ rút toàn bộ về nước.
- Giai đoạn 2: Sau khi tiến hành chuyển giao lực lượng quân đội đường bộ, Mĩ tiến hành tổng chuyển giao trên không cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Mĩ trang bị những vũ khí tối tân nhất nhằm tăng khả năng chiến đấu với mục tiêu xa hơn là thâu tóm miền Nam Việt Nam lẫn Đông Dương. Nixon tính toán kỹ lưỡng từng bước chuyển giao cặn kẽ tránh sơ hở để kìm hãm quân Giải phóng Việt Nam.
- Giai đoạn 3: Tổng thống Nixon có ý đồ đưa 2 miền Việt Nam thành 2 quốc gia riêng biệt. Vì vậy nếu hoàn thành được Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội tay sai sẽ từng bước lớn mạnh và khiến quân Giải phóng suy yếu, không thể chống cự.
1.2 Thất bại của Mĩ với chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh
Nhưng toàn bộ âm mưu của Mĩ đã bị chặn đứng bởi tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Quân dân Việt Nam đồng lòng đánh giặc trong từng chiến dịch, giải phóng lần lượt các tỉnh miền Nam Việt Nam. Đến tháng 1 năm 1973, quân đội tay sai không còn cầm cự được. Hiệp định Paris chính thức được kí kết đánh dấu bước chuyển mình trong kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam. Điều kiện quan trọng nhất được nêu ra trong Hiệp định Paris chính là toàn bộ quân Mĩ, quân tay sai rút khỏi miền Nam Việt Nam. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mĩ hoàn toàn sụp đổ.
1.3 Ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong lật đổ Việt Nam cho hóa chiến tranh
Sự đồng lòng của toàn thể nhân dân Việt Nam đã thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất trong đánh bại quân xâm lược. Sức mạnh tinh thần Quân dân Việt Nam được đẩy lên cao trào. Chiến thắng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh là sự khẳng định rõ ràng về niềm tin chiến thắng của dân tộc ta. Cùng với đó, tinh thần của quân địch bị suy giảm. Đây được coi là bước tiến trong công cuộc tiến đến hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước vào năm 1975 lịch sử.
Sự thất bại trong chiến lược mà quân địch đặt nhiều kỳ vọng khiến chúng bị giáng một đòn nặng nề. Không những không giải quyết được khủng hoảng như tham vọng đề ra mà còn khiến nó trầm trọng hơn. Sự kỳ vọng, đầu tư bậc nhất nhưng lại thất bại hoàn hoàn làm cho quân xâm lược điêu đứng. Mĩ tiếp tục phải tuyên bố thất bại trong cuộc chiến với Việt Nam.
>> Xem thêm: Tóm tắt chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Việt Nam (1965-1968)
2. Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ khi thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh
2.1 Âm mưu
- Việt Nam hóa chiến tranh là âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Bởi chiến lược này tiến hành chủ yếu là quân đội Sài. Nhưng để tránh bị đánh mất thực quyền mà toàn bộ không quân, hỏa lực và cố vấn cấp cao vẫn được người Mĩ thực hiện.
- Mục tiêu quan trọng hơn của người Mĩ trong Việt Nam hóa chiến tranh là giảm bớt xương máu của người Mĩ. Chính họ, quân đội xâm lược cũng gánh chịu những tổn thất về tính mạng dân tộc nên tiếp tục thực hiện "Dùng người Việt đánh người Việt".
- Không dừng lại ở đó, chỉ huy Mĩ sử dụng "Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương" trong các chiến dịch đối phó với nước bạn Lào và Campuchia. Trong giai đoạn thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ vừa tán phá tiềm lực về quốc phòng vừa phá hoại quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đây là âm mưu đầy dã tâm nhằm giảm nhuệ khí của quân ta, phá tan sự tiếp viện từ hậu phương.
2.2 Thủ đoạn
- Liên Xô và Trung Quốc được biết đến là 2 quốc gia cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa, chi viện cho Việt Nam kháng chiến. Để hạn chế tiềm lực của quân Giải phóng mà Mĩ đã thực hiện hòa hoãn, thỏa hiệp với Liên Xô và Trung Quốc.
- Mưu đồ thâu tóm cả Đông Dương, Mĩ sử dụng quân đội Sài Gòn để chiến tranh xâm lược với Cam Pu chia và Lào. Biến Việt Nam trở nên cô lập với cách mạng thế giới.
- Tổng kết lại, Mĩ đã sử dụng nhiều thủ đoạn trong chiến tranh với Việt: thỏa hiệp với các nước XHCN, phá hoại miền Bắc Việt Nam khiến miền Nam rơi vào thế bị động, không có trợ giúp. Từ đó thực hiện những trận đánh phủ đầu, tổn vong nặng nề cho nước ta.
Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mĩ là chiến lược đặc biệt, lớn nhất mà Mĩ từng sử dụng với mục đích thâu tóm, chiếm đóng hoàn toàn Việt Nam. Với ý chí kiên cường, lòng đoàn kết và sự nỗ lực không ngừng nghỉ, đặc biệt là đường lối đúng đắn của Đảng, quân dân ta đã một lòng đánh bại. Thắng lợi trước Việt Nam hóa chiến tranh là điểm sáng, niềm tự hào của toàn thể dân tộc trong trang sử vàng kháng chiến cứu nước. Hiện nay trong thời bình, các thế lực thù địch vẫn không ngừng tác động, thực hiện "Diễn biến hòa bình" với đất nước ta. Đảng và Nhà nước, toàn thể nhân dân cần cảnh giác và có định hướng đúng đắn trong ban hành và thực hiện chủ trương gìn giữ hòa bình.
Hy vọng bài viết đã giải đáp được những thông tin xoay quanh Việt Nam hóa chiến tranh và lịch sử Việt Nam hiện đại. Xem thêm: So sánh chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ chi tiết nhất?