Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm nhà cửa, công trình xây dựng
- 2. Người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng
- 3. Về cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể theo pháp luật dân sự trước đây
- 4. Về cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể theo pháp luật dân sự hiện nay
- 5. Về thứ tự chịu trách nhiệm và việc phân định trách nhiệm
Khách hàng: Kính thưa Luật sư Minh Khuê, hiện nay đối với bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra thì xác định trách nhiệm của chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác như thế nào?
Cảm ơn!
1. Khái niệm nhà cửa, công trình xây dựng
Mặc dù “nhà cửa” là một thuật ngữ pháp lý, nhưng không có văn bản nào đưa ra khái niệm “nhà cửa”, công trình xây dựng.
Dưới góc độ ngôn ngữ, theo Trang tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (1998), Đại Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội , nhà cửa được hiểu là “nhà ở nói chung”.
Theo đó, khái niệm nhà cửa và khái niệm nhà ở là những khái niệm đồng nhất về ý nghĩa, tức là đều sử dụng để nói đến “nhà” - một loại tài sàn trong hệ thống pháp luật dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014, “nhà ở là công trình xây dựng với mục đích đế ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”.
Theo khái niệm này, nhà ở cũng là một trong các loại công trình xây dựng do con người tạo ra để phục vụ các nhu cầu khác nhau.
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Xây dựng năm 2014 quy định:
“Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, cồng trình hạ tầng kỹ thuật và công trình khác".
Theo khái niệm này không những khái quát về công trình xây dựng, mà còn liệu kê các loại công trình xây dựng được điều chỉnh bởi Luật Xây dựng và pháp luật có liên quan.
Ngoài ra, các công trình xây dựng còn được liệt kê và phân loại cụ thể theo hướng dẫn tại Điều 8 Nghị định số 46/2015 về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng (danh mục chi tiết các các loại công trình được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này).
Có thể thấy, việc xây dựng khái niệm nhà ở, khái niệm công trình xây dựng và xác định cụ thể các loại công trình xây dựng như trong Luật Nhà ở năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014 và văn bản hướng dẫn thi hành có vai trò quan trọng, nhằm xác định cơ sở pháp lý được áp dụng để giải quyết van đề bồi thường thiệt hại khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra thiệt hại.
Theo đó, chỉ những công trình xây dựng đã được liệt kê tại Điều 8 Nghị định số 46/2015 về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng mà gây thiệt hại thì mới áp dụng quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại.
Xác định tư cách chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
Chủ sở hữu được xác định là người có quyền sở hữu đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác. Việc xác định chủ sở hữu đối với loại tài sản này đơn giản hơn, bởi vì nhà cửa và các công trình xây dựng khác thuộc nhóm tài sản là bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Do đó, chỉ cần căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cũng như quyền sở hữu các công trình xây dựng là có thể xác định được chủ sở hữu là ai. Đây là yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại.
2. Người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng
Về mặt thuật ngữ, theo Viện Khoa học pháp lý (2006), “Từ điển Luật học”, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa - Nhà xuất bàn Tư pháp, chiếm hữu được hiểu là “nắm giữ, quản lý tài sản”.
Như vậy, cũng có thể hiểu “người chiếm hữu” là “người nắm giữ, quản lý tài sản”. Việc nắm giữ và quản lý tài sản này có thể xuất phát từ rất nhiều căn cứ khác nhau. Theo Bộ luật dân sự năm 2015 đã xác định chiếm hữu bao gồm chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. người chiếm hữu có căn cứ pháp luật theo quy định cũng có thể bao gồm cả chủ sở hữu, người được giao quản lý tài sản. Hơn nữa, bản thân người được giao sử dụng trong nhiều trường họp cũng là người chiếm hữu nhà cửa, công trình xây dựng khác.
Ví dụ người thuê, người mượn tài sản sẽ vừa sử dụng, vừa quản lý.
Ngoài ra, người chiếm hữu, sử dụng ở đây cũng có thể là những người chiếm hữu, sử dụng không phải do chủ sở hữu chuyển giao, mà họ có quyền chiếm hữu, sử dụng thông qua những căn cứ khác do pháp luật quy định (người phát hiện và quản lý tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trưng dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác của một chủ thể để phục vụ cho hoạt động công cộng,...).
Do đó, việc sử dụng các thuật ngữ để xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra hiện nay là không phù hợp. Dần đến sự chồng chéo giữa các khái niệm, khái niệm này bao gồm khái niệm khác, trong khi đó vẫn chưa bao quát được tất cả các trường hợp có thể phát sinh trên thực tế. Đây là một điểm hạn chế mà theo tác giả cần sửa đổi cho phù hợp.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần hiểu rằng, người chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng ở đây không bao gồm người được giao chiếm hữu, sử dụng thông qua một quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc của người sử dụng lao động. Bởi vì thực chất, những người được giao chiếm hữu, sử dụng trong trường hợp này sẽ thực hiện những hành vi quản lý, sử dụng của chủ sở hữu (người giao), bản thân họ không được độc lập quyết định cách thức thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, đồng thời những lợi ích thu được từ việc giao chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng đó không thuộc về người chiếm hữu, sử dụng mà thuộc về cơ quan nhà nước hoặc người sử dụng lao động. Do đó, không thể buộc người chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác trên cơ sở một quyết định hành chính phải trách nhiệm bồi thường khi nhà cửa, công trình xây dựng mà họ quản lý gây thiệt hại cho người khác.
3. Về cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể theo pháp luật dân sự trước đây
Theo tinh thần của Điều 627 bộ luật dân sự trước đây, cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác là yếu tố lỗi của họ. Bởi vì, trong Điều 627 Bộ luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể chỉ được đặt ra nếu xác định được họ đã “để cho nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại”. Đối với từ “để” ở đây được xác định là để mặc cho nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại mà không thực hiện các nghĩa vụ tháo dỡ, phá bỏ nhà cửa, công trình xây dựng khác có nguy cơ gây ra thiệt hại. Đây chính là điểm bất cập trong quy định của bộ luật.
Sự bất cập này thể hiện ở chỗ, nếu nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại nhưng chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng chứng minh được mình đã “không để” nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại (tức là chứng minh được mình không biết và không thể biết về việc nhà cửa, công trình xây dựng khác sẽ gây thiệt hại), thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh hay không là vấn đề cần phải giải quyết. Nếu buộc chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi họ không có lỗi thì lại trái với tinh thần của Điều 627 (phải “để” nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại - tức là có lỗi mới phải bồi thường). Tuy nhiên, nếu không buộc chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng phải bồi thường thiệt hại thì sẽ không phù hợp với lẽ công bằng. Bởi vì, chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng là những người có quyền khai thác và thực hiện các quyền năng khác hoặc được hưởng những lợi ích nhất định từ việc quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác, nên khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại họ phải bồi thường là hoàn toàn phù hợp với lẽ công bằng.
4. Về cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể theo pháp luật dân sự hiện nay
Những hạn chế trong quy định tại Điều 627 của bộ luật ta vừa phân tích ở mục (3) trên đã phần nào được khắc phục bởi Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015.
"Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường."
Theo tinh thần của Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phát sinh trên cơ sở họ được thực hiện các quyền năng đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác chứ hoàn toàn không xuất phát từ yếu tố lỗi của họ trong quản lý tài sản. Điều này thể hiện ở việc, Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 đã thay hai từ “nếu để” bằng từ “do”, đồng thời các cụm từ xác định các “trạng thái” gây thiệt hại của nhà cửa, công trình xây dựng khác (bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở) cũng được loại bỏ.
Sự thay đổi này là hoàn toàn phù hợp với bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nói chung. Bởi vì, chủ sở hữu và các chủ thể khác được hưởng các quyền đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác thì khi có thiệt hại xảy ra, dù họ có lỗi hay không có lỗi trong quản lý thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho những người xung quanh.
5. Về thứ tự chịu trách nhiệm và việc phân định trách nhiệm
Theo Bộ luật dân sự năm 2015 đều không xác định thứ tự chịu trách nhiệm của chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản. Điều đó dẫn đến khó khăn trong việc xác định chủ thể sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra.
Ví dụ, khi chủ sở hữu đã chuyển giao cho người khác quản lý, sử dụng rồi thì có phải bồi thường nếu có thiệt hại không? Do đó, cần phải xác định thứ tự chịu trách nhiệm bồi thường và phải phân định được trách nhiệm của các chủ thể khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại. Theo quan điểm của tác giả, việc xác định người phải bồi thường thiệt hại là chủ sở hữu hay người chiếm hữu, người được giao quản lý, người sử dụng sẽ phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất, trong trường hợp nhà cửa, công trình khác gây thiệt hại mà có lỗi của người quản lý, thì phải xem xét trong thời gian đó chủ thể nào có nghĩa vụ quản lý (nghĩa vụ kiểm tra tình trạng, khắc phục hư hỏng,...). Nếu chủ sở hữu là người trực tiếp quản lý, sử dụng thì chủ sở hữu phải bồi thường. Nếu do người khác chiếm hữu, sử dụng và do họ đã không thực hiện tốt nghĩa vụ quản lý thì họ phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp thứ hai, trường hợp nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại mà không có sự vi phạm trong quản lý (tức là không chủ thể nào bị coi là có lỗi), thì việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phụ thuộc vào việc ai là người được thực hiện các quyền khai thác công dụng hoặc hưởng lợi các lợi ích phát sinh từ nhà cửa, công trình xây dựng khác tại thời điểm nó gây thiệt hại.
Theo đó, nếu chủ sở hữu là người đang thực hiện các quyền đối với tài sản hoặc đang được hưởng các lợi ích từ tài sản đó thì chủ sở hữu phải bồi thường, kể cả tại thời điểm đó nhà cửa, công trình xây dựng đang do người khác trực tiếp quản lý. Ví dụ cả nhà đi xem phim và có nhờ người khác sang trông nhà hộ, nếu nhà gây thiệt hại, chủ sở hữu phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền khai thác công dụng hoặc hưởng các lợi ích từ nhà cửa, công trình xây dựng khác cho chủ thể khác (người thuê, người mượn,...) thì khi nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại, người được chuyển giao sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, nếu các bên có thỏa thuận thì việc xác định chủ thể bồi thường thiệt hại sẽ căn cứ vào thỏa thuận đó mà không dựa vào yếu tố lỗi và quyền của chủ thể đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác. Đây là vấn đề mà Bộ luật dân sự năm 2015 hiện nay không xác định. Điều này không có nghĩa các bên không được thỏa thuận về việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, mà đây là một điểm hạn chế cần phải sửa đổi để đảm bảo sự thống nhất giữa quy định về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra với các quy định khác có liên quan.
Trân trọng!