1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đồng phạm được xác định như thế nào?

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án có đồng phạm thì sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 587 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra như sau:

- Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

Như vậy, trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người. Nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

Căn cứ theo quy định tại Phần I của Công văn 212/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao, về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, có quy định chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm. Theo quy định này, trong quá trình xem xét và đưa ra quyết định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là tòa án nhân dân, sẽ dựa vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm, quy định tại Điều 587 của Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ được áp dụng. Theo đó, trong trường hợp có nhiều người cùng gây ra thiệt hại, những người này sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho những đối tượng bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người. Trong trường hợp không thể xác định được mức độ lỗi của từng người, những đối tượng này sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo tỷ lệ bằng nhau.

Ngoài ra, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự thì Tòa án có thể tham khảo thêm hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

Do đó, khi có nhiều người cùng gây ra thiệt hại, tất cả đều chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người trong số những người cùng gây ra thiệt hại sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi đồng phạm. Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể xác định được mức độ lỗi của từng người đồng phạm, mỗi người sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại một phần bằng nhau.

2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đồng phạm bỏ trốn

Về trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại sẽ được xác định như thế nào khi có đồng phạm bỏ trốn:

Ví dụ: A và B trộm cắp chiếc xe máy của anh C có giá trị 65 triệu đồng. Tuy nhiên, trong thời gian tạm giam A bỏ trốn, cơ quan tiến hành tố tụng đã tách vụ án, tạm đình chỉ điều tra và quyết định truy nã đối với A

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh C yêu cầu B phải bồi thường cho mình toàn bộ giá trị chiếc xe máy là 57 triệu đồng; nhưng B chỉ chấp nhận bồi thường cho bị hại ½ giá trị chiếc xe là 32,5 triệu đồng.

Hiện có những quan điểm giải quyết chưa được thống nhất như sau: 

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chấp nhận yêu cầu của anh C, buộc B bồi thường cho anh C 65 triệu đồng. Vì A bỏ trốn, cơ quan tiến hành tố tụng đã tạm đình chỉ vụ án đối với A, nên cần buộc B phải bồi thường toàn bộ thiệt hại để đảm bảo quyền lợi cho anh C Trách nhiệm hoàn trả của A cho B, được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự (khi bắt được A. và  có yêu cầu).

Quan điểm thứ hai cho rằng: Buộc B bồi thường cho anh C là 32,5 triệu đồng. Vì B chỉ có trách nhiệm bồi thường ½ giá trị chiếc xe máy; phần còn lại là trách nhiệm của A và cần xác minh tài sản của A, để buộc A bồi thường (tuyên án vắng mặt A).

Xác định lỗi của bị hại trong vụ án mà bị hại cũng có lỗi:

Trong các vụ án hình sự, tình tiết "người bị hại cũng có lỗi" đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vấn đề bồi thường dân sự. Theo quy định của Điều 585 trong Bộ luật dân sự năm 2015: "Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra."

Do đó, trong những trường hợp mà người bị hại cũng có lỗi, cần phải xác định mức độ và tỷ lệ lỗi của bị hại để xác định mức bị cáo phải bồi thường tương ứng với tỷ lệ lỗi. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình xác định mức độ lỗi và tỷ lệ lỗi trong nhiều vụ án vẫn chưa đạt được độ chính xác cao, và có sự tùy nghi trong việc áp dụng quy định này.

Một số kiến nghị đề xuất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi đồng phạm bỏ trốn:

Một là, trong quá trình xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại giữa các đồng phạm, cần dựa vào mức độ lỗi của từng người tương ứng với phần trách nhiệm mà họ gây ra. Đồng thời, việc bồi thường thiệt hại phải được thực hiện toàn bộ và kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại do tội phạm trong cùng một vụ án, theo quy định tại Điều 585 và 587 của Bộ luật Dân sự 2015.

Hai là, cần đưa ra quy định chi tiết và rõ ràng về cách xác định mức độ lỗi của bị hại, người bị thiệt hại trong vụ án mà họ cũng có lỗi. Việc xác định chính xác vấn đề về lỗi của các bên là quan trọng để đưa ra quyết định chính xác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do đó, cần có các quy định cụ thể hơn về cách xác định lỗi của các bên, nhằm đảm bảo sự thống nhất và tránh nhận định thiên lệch trong quá trình xử lý vụ án.

3. Đồng phạm tự nguyện bồi thường thiệt hại có được xem là tình tiết giảm nhẹ không?

Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

- Người phạm tội có hành vi ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc có hành vi khắc phục hậu quả;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết, vượt quá mức cần thiết trong quá trình bắt giữ tội phạm, phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

- Phạm tội xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà hoàn cảnh đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra, phạm tội khi chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn trên thực tế;

- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật;

- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào và không có khả năng lựa chọn khác;

Theo quy định nêu trên, một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên có kể đến người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Như vậy thì khi các đồng phạm trong vụ án hình sự có hành vi bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Xem thêm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là gì? Thời hạn bồi thường

Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Xác định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đồng phạm mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.

Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!