Mục lục bài viết
- 1. Khái quát về quyền con người
- 2. Các tính chất (nguyên tắc) của quyền con người.
- 2.1. Tính phổ biến (universal)
- 2.2. Tính không thể tước bỏ (inalienable)
- 2.3. Tính không thể phân chia (indivisible)
- 2.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent)
- 3. Bình luận về nhận định cho rằng “Quyền con người có tính đặc thù bên cạnh tính phổ biến”
- 4. Quan điểm "Quyền con người là giá trị chung của nhân loại " thể hiện như thế nào?
1. Khái quát về quyền con người
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm. Cùng với việc ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 v.v… và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định của các bản Hiến pháp trước đây về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới căn bản, quan trọng cả về cơ cấu, bố cục, cách viết và nội dung. So sánh, đối chiếu với các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992, chúng ta càng thấy rõ đều đó.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong một cuộc khảo sát gần đây do CNN-một trong các cơ quan truyền thông nổi tiếng nhất thế giới-tiến hành, quyền con người được xem là một trong mười phát minh làm thay đổi thế giới.
2. Các tính chất (nguyên tắc) của quyền con người.
2.1. Tính phổ biến (universal)
2.2. Tính không thể tước bỏ (inalienable)
2.3. Tính không thể phân chia (indivisible)
2.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent)
3. Bình luận về nhận định cho rằng “Quyền con người có tính đặc thù bên cạnh tính phổ biến”
Để xem xét tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người trên phương diện triết học, theo chúng tôi, cần phải gắn với cặp phạm trù cái chung - cái riêng. Đứng trên quan điểm biện chứng, không thể có một sự vật, hiện tượng nào chỉ chứa đựng trong nó thuộc tính vốn có của tất cả mọi sự vật hiện tượng. "Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,… tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng. Trong mỗi sự vật, ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là những đặc tính, những tính chất,.. chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
- Tính phổ biến (universal) của QCN thể hiện ở chỗ QCN là những tài sản tự nhiên, vốn có của mọi con người, được pháp luật (quốc gia, quốc tế, khu vực) bảo vệ những giá trị bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Tuy nhiên, cần chú ý là trong một số bối cảnh, sự bình đẳng không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền con người.
- Trong khi đó, những người có quan điểm cho rằng QCN có tính đặc thù do những khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia, các tiêu chuẩn và việc thực thi các QCN ở các quốc gia dân tộc khác nhau cần có sự khác nhau.
- Tuy nhiên, tính phổ biến và tính đặc thù là hai đặc tính mâu thuẫn với nhau, và QCN đã có tính phổ biến thì sẽ không có tính đặc thù.
Một ví dụ tiêu biểu cho thấy sự khác biệt về quan điểm giữa hai thuyết kể trên là vấn đề cắt âm vật của người phụ nữ mà vấn tồn tại ở một số nước châu Phi, châu Á và Nam Mỹ. Tập tục này thực tế không liên quan đến tôn giáo mà đơn thuần chỉ là một tập quán văn hóa. Trong khi tập tục này bị những người theo thuyết phổ biến lên án gay gắt như một vi phạm nghiêm trọng nhân thân của người phụ nữ và trẻ em gái thì những người theo thuyết tương đối về văn hóa coi đó như một đặc trưng văn hóa cần được tôn trọng. Một ví dụ khác nữa có thể liên quan đến những hạn chế về quyền phụ nữ ở một số nước Hồi giáo từ những cấm kỵ với phụ nữa trong việc tiếp xúc, giao tiếp với đàn ông đến những hạn chế của họ trong việc tham gia chính quyền, quyền đa thê của nam giới,…
4. Quan điểm "Quyền con người là giá trị chung của nhân loại " thể hiện như thế nào?
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến bài viết Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại.
Trân trọng./.
Công ty luật Minh Khuê (biên tập)