Mục lục bài viết
1. Các mô hình trợ giúp pháp lý trên thế giới
Nhìn chung, trên thế giới hiện nay có 3 mô hình TGPL chủ yếu, đó là: mô hình luật sư công (mô hình do Nhà nước thực hiện hoàn toàn), mô hình TGPL do luật sư và tổ chức xã hội thực hiện hoàn toàn, mô hình hỗn hợp (TGPL do Nhà nước thành lập tổ chức thực hiện và thu hút luật sư, các tổ chức xã hội tham gia). Tuy nhiên, xu hướng phổ biến nhất hiện nay là hệ thống TGPL theo mô hình hỗn hợp.
2. Mô hình luật sư công
Theo mô hình này Nhà nước trực tiếp thực hiện toàn bộ các vụ việc TGPL bằng cách thành lập ra hệ thống của mình, tuyển dụng đội ngũ người thực hiện TGPL và cấp kinh phí cho hệ thống hoạt động. Qua nghiên cứu mô hình TGPL của các nước thì thấy rằng, không có nhiều nước áp dụng mô hình này.
Hiện nay, Phillipine và Achentina là các nước theo mô hình này và có các ưu điểm như sau:
- Nhà nước hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng và thống nhất tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch TGPL của mình trong phạm vi toàn quốc;
- Tổ chức và người thực hiện TGPL chủ động, không bị phụ thuộc vào đội ngũ luật sư tư trong việc thực hiện vụ việc; có điều kiện tập trung đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong tất cả các lĩnh vực TGPL, kể cả những lĩnh vực không có luật sư tư tham gia;
- Nhà nước chủ động và thống nhất quản lý công tác TGPL; chủ động giám sát, kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL thông qua hệ thống các cơ quan và người thực hiện TGPL của Nhà nước.
Nhược điểm của mô hình này là:
- Do chỉ có hệ thống TGPL của Nhà nước nên người được TGPL chỉ được lựa chọn người thực hiện TGPL là người do Nhà nước tuyển dụng, không thể lựa chọn luật sư tư;
- Trong trường hợp nhu cầu TGPL của người dân lớn gây ra sự quá tải, tạo áp lực cho người thực hiện TGPL của Nhà nước;
- Một số trường hợp khó bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình xử lý vụ việc do mối quan hệ giữa cơ quan TGPL của Nhà nước và các cơ quan tố tụng trong cùng hệ thống bộ máy của Nhà nước;
- Nguồn nhân lực và tài chính cho TGPL hoàn toàn phụ thuộc vào Chính phủ, nên có thể gây áp lực cho ngân sách nhà nước nhất là khi phải đáp ứng nhu cầu TGPL ngày càng tăng của xã hội.
3. Mô hình luật sư tư
Theo mô hình này, cơ quan nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TGPL, xây dựng kế hoạch, chính sách, xem xét điều kiện TGPL, giao vụ việc cho luật sư và các tổ chức xã hội thực hiện, nghiệm thu vụ việc và thanh toán thù lao cho người thực hiện TGPL. Qua nghiên cứu thì thấy rằng rất ít nước tổ chức hệ thống TGPL theo mô hình này như Indonesia, Hungary, Ý, Tây Ban Nha. Ưu điểm của mô hình này là: Nhà nước không cần thành lập hệ thống các cơ quan TGPL nên Nhà nước không cần đầu tư trụ sở, trang thiết bị; không phải tuyển dụng, đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ và không phải trả lương, các chi phí hành chính cho đội ngũ người thực hiện TGPL của Nhà nước mà sử dụng luật sư và các tổ chức xã hội. Nhược điểm của mô hình này là:
- Việc thực hiện TGPL hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ luật sư tư, do đó, Nhà nước không chủ động trong việc cử luật sư thực hiện TGPL;
- Chi phí thực hiện vụ việc TGPL của luật sư tư cao;
- Việc quản lý, đánh giá vụ việc và chi trả thù lao cho luật sư tư và tổ chức xã hội khá phức tạp, đòi hỏi cơ quan TGPL và các luật sư phải có sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin.
- Nhà nước phải phụ thuộc vào luật sư, do đó khi luật sư có yêu sách, nhà nước phải đáp ứng, nếu không họ không thực hiện TGPL.
Mặc dù hiện nay, tất cả các mô hình TGPL trên vẫn còn được sử dụng, tuy nhiên, chúng ta thấy xu hướng ngày càng có nhiều quốc gia chuyển dịch từ mô hình luật sư tư thực hiện sang các mô hình hỗn hợp có sự tham gia tích cực của Nhà nước. Một số nước đã từng áp dụng mô hình này đã chuyển đổi sang mô hình hỗn hợp. Ví dụ, trước năm 2006 tại Nhật Bản, hoạt động TGPL giao hoàn toàn cho Liên đoàn luật sư. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, Liên đoàn luật sư đã không bảo đảm đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Do đó, Nhà nước đã thành lập hệ thống TGPL của Nhà nước và ký hợp đồng với luật sư tư để thực hiện một số vụ việc. Tại Nam Phi, từ năm 1969 công việc TGPL được giao cho luật sư; sau một thời gian thực hiện thấy rằng cơ quan nhà nước không thể kiểm soát yêu cầu chi phí thực hiện TGPL của luật sư tư cũng như chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho người được TGPL. Nhiều luật sư kê khống thời gian thực hiện TGPL và yêu cầu Nhà nước trả tiền. Do đó, Nam Phi đã nghiên cứu xây dựng thí điểm mô hình tổ chức TGPL của Nhà nước, tuyển dụng các luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức và trả lương hàng tháng, bên cạnh đó Nhà nước cũng có cơ chế huy động luật sư tư thực hiện TGPL thông qua ký hợp đồng vụ việc.
4. Mô hình hỗn hợp
Theo mô hình này, các nước thành lập hệ thống TGPL của Nhà nước, ký hợp đồng với các tổ chức xã hội hoặc luật sư tham gia thực hiện TGPL và trả thù lao cho luật sư, tổ chức xã hội. Mô hình này là sự kết hợp của 02 mô hình trên, nên có thể phát huy được hiệu quả, ưu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế của 02 mô hình trên. Hiện nay, rất nhiều nước áp dụng mô hình này (Nhật Bản, Ailen, bang Victoria, Queensland (Úc), Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, bang Ontario (Canada), Malaysia, Israel,…). Đây là mô hình phổ biến nhất hiện nay trên thế giới và cũng là mô hình được đánh giá hiệu quả nhất, phát huy được ưu điểm và khắc phục được những bất cập, hạn chế của 2 mô hình kia (mô hình do Nhà nước thực hiện hoàn toàn và mô hình do luật sư thực hiện hoàn toàn), cụ thể như sau:
- Mô hình này cho phép sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội do kết hợp và phát huy được các lợi thế của người thực hiện TGPL của Nhà nước và các luật sư tư, các tổ chức xã hội. Thực tiễn cho thấy, mô hình này đã mang lại hiệu quả cao trong công tác TGPL;
- Do có đội ngũ người thực hiện TGPL của Nhà nước nên Nhà nước bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL của người dân ở những địa bàn khác nhau (ngay cả vùng sâu, vùng xa, nơi không có hoặc có rất ít luật sư tư), không bị quá lệ thuộc vào đội ngũ luật sư tư; đồng thời, Nhà nước có thể chủ động điều phối các nguồn lực (kể cả nhân lực và kinh phí) ở mọi thời điểm, bảo đảm cho công tác TGPL phát triển ổn định và hiệu quả, thông qua đó Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong công tác công tác TGPL;
- Nhà nước có thể huy động được các nguồn lực khác nhau trong xã hội tham gia công tác TGPL. Căn cứ vào nhu cầu TGPL của người dân và nguồn kinh phí dành cho công tác TGPL, Nhà nước có thể lựa chọn và ký hợp đồng TGPL với các luật sư tư, tổ chức tham gia TGPL và điều phối vụ việc TGPL trong những trường hợp cần thiết;
- Đội ngũ người thực hiện TGPL của Nhà nước hoạt động ổn định do họ được tuyển dụng, được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chính sách phát triển của Nhà nước và được trả lương theo quy định chung của Nhà nước;
- Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa người thực hiện TGPL của Nhà nước và luật sư tư nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí vụ việc. Vì vậy, người được TGPL có cơ hội được hưởng dịch vụ TGPL tốt hơn.
5. Các hình thức trợ giúp pháp lý
5.1. Về TGPL tại nhà riêng
+ Thuận lợi: Việc tư vấn tại nhà riêng diễn ra ngoài giờ làm việc hành chính. Nhờ vậy, đối tượng cần trợ giúp không bị chi phối bởi công ăn việc làm. Hơn nữa, ở nhà riêng của TGV, đối tượng có thể mạnh dạn tỏ bày tâm tư “tận đáy lòng”, kể cả những vấn đề nhạy cảm, khó nói trước nhiều người.
+ Hạn chế: Tư vấn tại nhà riêng ít nhiều ảnh hưởng tới nếp sinh hoạt gia đình của TGV, đôi khi phát sinh tiêu cực từ phía đối tượng nhờ tư vấn (bồi dưỡng quà cáp cho trợ giúp viên) hoặc TGV lợi dụng vai trò tư vấn tại gia không có ai giám sát dễ yêu sách đối tượng bồi dưỡng (tiền bạc, quà cáp).
5.2. Về TGPL tại cơ quan tổ chức
+ Thuận lợi: Tại trụ sở làm việc trước mặt “bá quan văn võ” TGV chủ động, thoải mái tiếp xúc trao đổi, tư vấn cho đối tượng trong giờ hành chính, một cách công khai, minh bạch.
+ Hạn chế: Không gian và thời gian không thoải mái cho đối tượng trước những vấn đề mà đối tượng nhờ tư vấn khó giải bày trước chỗ đông người như: quan hệ thầm kín giữa vợ chồng, đạo hiếu giữa con cháu đối với ông bà, cha mẹ... trước những vấn đề mang tính tế nhị như thế, thường thì đối tượng chỉ muốn tiếp xúc, thổ lộ riêng với TGV mà thôi.
5.2. Về TGPL lưu động
+ Thuận lợi: Do môi trường tư vấn gồm nhiều TGV, hoạt động sinh động hào hứng, đầy khí thế khiến TGV hưng phấn khi tiếp xúc, tư vấn cho đối tượng. Khi gặp phải vấn đề “hóc búa” TGV có thể tham khảo ý kiến các thành viên trong đoàn công tác trước khi trả lời cho đối tượng. Ở nơi vùng sâu, vùng xa đối tượng nhờ tư vấn thường rất tin tưởng lời hướng dẫn của TGV.
+ Hạn chế: Về mặt nhận thức không loại trừ khả năng, đối tượng nhờ trợ giúp nhầm lẫn TGV với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, khiến TGV phải giải thích, xác định vai trò, quyền hạn của mình. Mặt khác, đa số đối tượng nhờ tư vấn là thành phần “chân lấm tay bùn” trình độ hiểu biết pháp luật rất hạn chế nên họ e dè, không xác định rõ ràng, cụ thể yêu cầu của họ cho TGV nên hiệu quả tư vấn không cao. Về phía chính quyền sở tại, có lúc, có nơi họ e ngại TGV giải thích pháp luật một cách thẳng thắn khiến người dân đòi hỏi quyền lợi, chính quyền phải lúng túng khi giải quyết đòi hỏi của người dân. Cũng có trường hợp TGV vì quá hăng say, thiếu cân nhắc hướng dẫn đối tượng khiếu nại vượt cấp: nếu chính quyền địa phương không giải quyết thì đối tượng có thể khiếu nại lên Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng Chính phủ...