Mục lục bài viết
1. Khái quát về cơ chế giải quyết tranh chấp GATT
Sau khi thành lập WTO, Chính phủ Hoa Kỳ đã ủng hộ việc giải quyết tranh chấp một cách tự động và ràng buộc vì hầu hết mọi người nghĩ rằng quá trình tư pháp như vậy sẽ giúp thực thi bộ quy tắc lớn đã được thông qua tại Vòng Uruguay - mà Hoa Kỳ ủng hộ. Đây là sự thay đổi quan trọng so với GATT, trong đó việc giải quyết tranh chấp vừa không tự động vừa không ràng buộc. Hoạt động giải quyết tranh chấp của GATT/WTO, sự mở rộng làm luật tư pháp bởi các hội đồng xét xử giải quyết ttanh chấp và Cơ quan Phúc thẩm, và phạm vi chiến lược của Cơ quan Phúc thẩm được phân tích và được đánh giá về sau. Cho đến nay, việc Cơ quan Phúc thẩm tham gia vào làm luật đã gây ra sự phản đối chính trị, nhưng nó không làm đảo lộn cơ bản sự cân bằng giữa quyền lực và tránh nhiệm được hiện diện trong các kết quả của Vòng Uruguay, do vậy nó không vượt quá giới hạn không gian chiến lược của nó.
Cần phải hiểu rõ các quy tắc và quy trình giải quyết tranh chấp của WTO trong bối cảnh các quy tắc và quy trình giải quyết tranh chấp của GATT. GATT được thiết lập ra để tạo thuận lợi cho sự mặc cả giữa các thành viên tham gia về luật lệ và chính sách tự do hóa thương mại. Mặc dù có sự quan ngại về việc giữ lời hứa của các nước, cơ chế giám sát phụ thuộc vào từng nước, nhân danh nhà sản xuất, sự khiếu nại về vi phạm. Ban thư ký vừa không giám sát vừa không có quyền lực tư pháp. Mặc dù ban thư ký soạn thảo dữ liệu về các hoạt động thương mại bắt đầu từ năm 1989 thông qua Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại (TPRM), dữ liệu trong các báo cáo này không xác lập căn cứ chính thức cho sự tranh chấp cũng không phải là bằng chứng pháp lý về hành vi thương mại của một nước. Việc theo dõi thông qua sự giám sát bởi từng bên tham gia hiệp định; khi một khiếu nại được đưa ra, ban thư ký sẽ giúp thành lập một hội đồng xét xử. Nếu hội đồng xét xử phát hiện khiếu nại là đúng và bên khiếu nại không ngăn chặn sự đồng thuận để thông qua báo cáo của hội đồng xét xử, thì bên vi phạm sẽ bị buộc phải thay đổi hành vi của mình. Trong trường hợp không có sự thay đổi trong thực tế, thì chẳng có thể làm được gì hơn là biện pháp trả đũa - mặc dù hành động đó cũng đòi hỏi sự đồng thuận.
2. Các thủ tục giải quyết tranh chấp trong GATT
Trong khi việc lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp là một nhân tố quan trọng của các cuộc đàm phán ITO, vấn đề này nhận được sự chú ý rất ít trong GATT 1947. Các thủ tục tranh chấp thực sự trong GATT được dựa vào Điều xxm, nêu rõ các thủ tục trong các trường hợp khi mà các bên không thể thỏa thuận với nhau sau khi được hòa giải. Điều khoản này nói đến quyền của một bên tham gia hiệp định đưa ra các bên tham gia hiệp định để có quyết định về sự vi phạm. Thông lệ thành lập hội đồng xét xử để giúp các bên tham gia hiệp định hiểu rõ sự vụ đã được nêu sơ bộ không phải trong các điều khoản mà trong Phụ lục mô tả thông lệ của GATT. Sau một thời gian Phụ lục trở nên chi tiết hơn, bao gồm các vấn đề như là thông báo, quy tắc lựa chọn các thành viên hội đồng xét xử và vai trò của các chính phủ thành viên. Đến những năm 1980, các thủ tục giải quyết tranh chấp đã được chính thức hóa trong một loạt bản ghi nhớ giữa các bên tham gia, nêu rất cụ thể cơ cấu, thời gian, và quy tắc giải quyết các tranh chấp.
Dù có những thay đổi này, nội dung cơ bản của việc giải quyết tranh chấp vẫn giữ không thay đổi trong GATT. Các bên tham gia phải đồng ý bằng đồng thuận để thiết lập một hội đồng xét xử, để thông qua báo cáo của hội đồng xét xử, và để ủy quyền mọi biện pháp trả đũa nếu có bên nào vẫn duy trì việc làm trái với báo cáo của hội đồng xét xử. Tất nhiên, đôi khi các bên bị kiện ngăn cản sự đồng thuận để ngăn cản chuyển qua các bước của quy trình.
3. Những nhược điểm của thủ tục giải quyết tranh chấp của GATT
Sự yếu kém của thủ tục giải quyết tranh chấp GATT trở nên ngày càng rõ ràng vào những năm 1980. Trong những năm đầu của GATT, 1948-1959 các bên tham gia đưa ra khiếu kiện nhau tương đối ít (53 vụ). Thủ tục của hội đồng xét xử như đã nói ở trên đã được phát triển trong những năm này, và nó đã được áp dụng cho hơn một nửa các vụ kiện (Hudec 1992). Khi số lượng các bên tham gia tăng lên, thì số các tranh chấp cũng tăng theo. Có thể để phản ánh sự không hài lòng đối với các thủ tục giải quyết tranh chấp số lượng các khiếu nại chính thức đã không tăng lên và trên thực tế còn giảm đi sau năm 1963. Trong khi có gần 63 vụ kiện cáo đã được ban thư ký xử lý suốt năm 1962, thì chỉ có một vụ mới được đưa ra trong cả năm 1970. Hudec lập luận vấn đề là ở chỗ tính chất hợp pháp - quá trình này được coi là không công bằng (Hudec 1991). Hợp pháp hay không, nhưng số lượng các vụ tăng lên trong những năm 1970, với tổng số là 32; trong những năm 1980 quy trình xử lý của hội đồng xét xử bắt đầu được viện dẫn thường xuyên (Hudec 1991). Trong số 115 vụ khiếu kiện được đưa ra trong những năm 1980, 47 vụ dẫn đến các báo cáo của hội đồng xét xử. Tuy nhiên chỉ có khoảng hai phần năm phán quyết nghiêng về bên kiện đã dẫn đến sự tuân thủ đầy đủ của bên bị kiện (Busch và Reinhardt 2002, 473). Tuy nhiên, số lượng vụ kiện tăng lên đã buộc ban thư ký phải thành lập một bộ phận pháp lý riêng biệt, đã có tác dụng khuyến khích thêm các khiếu kiện pháp lý. Khi số lượng các vụ kiện, sự ồn ào, và tầm quan trọng của các vụ kiện tăng lên, thì số lượng các trường hợp mà sự đồng thuận bị chặn lại cũng tăng theo.
4. Xu hướng giải quyết tranh chấp thương mại của Hoa Kỳ
Giữa những năm 1970 và 1980, để đối phó sự thâm hụt thương mại tăng lên, các nhận thức về những thực tiễn thương mại không công bằng ở bên ngoài, và sự thất vọng trước hệ thống giải quyết tranh chấp yếu kém của GATT, Hoa Kỳ ngày càng quay sang luật trong nước để xử lý các tranh chấp thương mại. Đặc biệt, quan điểm “đơn phương” để xử lý các tranh chấp thương mại đã được Quốc hội Mỹ ban hành dưới hình thức Điều khoản 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974. Điều khoản 301 cho phép (và trong một số trường hợp, đòi hỏi) tổng thống áp đặt sự trừng phạt trả đũa thương mại đối với các nước có những hành vi “không biện minh được, có tính phân biệt đối xử, hoặc không công bằng” - theo sự xác định bởi Đại diện Thương mạl Hoa Kỳ (USTR). Như vậy, khi một chính phủ nước ngoài ngăn chặn quy trình giải quyết tranh chấp của GATT, chính phủ Hoa Kỳ thường ở vào vị trí đe dọa trả đũa thương mại đơn phương chống lại chính phủ đó, trừ khi chính phủ đó đồng ý thay đổi hành vi thương mại của mình phù hợp với các yêu cầu của Washington. Quan điểm giải quyết tranh chấp thương mại này của Hoa Kỳ đã không được tất cả các nước ủng hộ.
5. Đánh giá về cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO so với GATT
Đánh giá về cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO như đã trình bày ở trên có một số ưu điểm lớn so với các phương thức giải quyết tranh chấp trong Luật quốc tế và 16 có nhiều điểm tiến bộ hơn trong tương quan với thủ tục giải quyết tranh chấp trong GATT, tiền thân của WTO.
Thứ nhất, việc giải quyết được tiến hành thận trọng, qua hai bước bởi các cơ quan trung lập (Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm), đảm bảo giải quyết một cách chính xác các tranh chấp. Đây là lần đầu tiên trong một cơ chế tài phán giải quyết tranh chấp quốc tế xuất hiện một Cơ quan Phúc thẩm với các cơ hội xem xét lại quyết định ban đầu, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp.
Thứ hai, cơ chế này được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ với các thời hạn, ngắn, xác định. Điều này cho phép các tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo ý nghĩa của các biện pháp giải quyết đưa ra đối với các bên, đặc biệt là bên thắng cuộc (bởi một cơ hội thương mại có thể không còn ý nghĩa nếu biện pháp giải quyết đưa ra quá muộn màng).
Thứ ba, cơ chế thông qua tự động (đồng thuận phủ quyết) của DSB cho phép các báo cáo được thông qua dễ dàng. Cơ chế này thật sự có ý nghĩa trong các trường hợp bên bị xem là có biện pháp vi phạm qui định là nước có tiềm lực kinh tế mạnh bởi áp lực mà các nước này có thể tạo ra trong quá trình thông qua quyết định sẽ không còn lớn như trước đây.
Thứ tư, cơ chế này cho phép đưa ra giải pháp cuối cùng cho tranh chấp, bảo đảm quyền lợi của Bên bị vi phạm, tránh những bế tắc không thể vượt qua trong những phương thức giải quyết ngoại giao (ví dụ: tham vấn trong HĐTM).
Thứ năm, DSU có nhiều qui định về thủ tục dành riêng cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này khi tham gia thủ tục giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng từ năm 1995 đến nay, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO cũng đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, như:
Thứ nhất, phương thức đồng thuận phủ quyết (hay đồng thuận tiêu cực) đồng nghĩa với việc hầu như các báo cáo (của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan 17 Phúc thẩm) đều được thông qua tại DSB. Điều này dẫn đến tình trạng các báo cáo khuyến nghị được thông qua dễ dàng hơn nhiều nhưng khả năng thực thi thì lại giảm sút.
Thứ hai, về nguyên tắc, nếu bên vi phạm không tự nguyện thực hiện các khuyến nghị của DSB thì bên kia có thể yêu cầu DSB cho phép thực hiện các biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, biện pháp trả đũa có thể không có ý nghĩa hoặc ít có hiệu quả nếu nước trả đũa là nước đang phát triển.
Thứ ba, nhiều qui định được xem là “ưu tiên” cho các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có ý nghĩa rất mờ nhạt trên thực tế: có qui định chỉ mang tính tuyên bố hơn là qui định thực tế (ví dụ qui định về nghĩa vụ của các Bên tranh chấp “đặc biệt lưu ý” đến quyền lợi của các nước đang phát triển: nội hàm của khái niệm “đặc biệt lưu ý” không được qui định rõ cũng không được xác định rõ trong các báo cáo của các ban hội thẩm hay của cơ quan phúc thẩm); có qui định trên thực tế rất ít hiệu quả (ví dụ trách nhiệm trợ giúp pháp lý của Ban Thư ký WTO trên thực tế do một số ít cá nhân thực hiện, không thể đáp ứng đủ nhu cầu to lớn về trợ giúp pháp lý của các nước đang phát triển là thành viên WTO).
Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO có xu hướng thiên về các yếu tố kỹ thuật, pháp lý đòi hỏi các bên tham gia phải có một đội ngũ chuyên gia kinh tế, pháp lý giàu kinh nghiệm. Đối với các nước đang phát triển, đây thực sự là một thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm cho thấy các nước đang phát triển khi tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO đều phải thuê các luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý và chuyên môn của nước ngoài với những mức chi phí mà không phải nước nào cũng chấp nhận được.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)