Mục lục bài viết
- 1. Cách hiểu về chủ nghĩa hiến pháp
- 2. Khoa học luật hiến pháp là gì ?
- 2.1 Đối tượng nghiên cứu của khoa học luật hiến pháp
- 2.2 Phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hiến pháp
- 2.3 Hệ thống khoa học luật hiến pháp
- 2.4 Mối liên hệ giữa khoa học luật hiến pháp và các ngành khoa học pháp lý khác
- 2.5 Khoa học luật hiến pháp Việt Nam và khoa học luật hiến pháp của thế giới
- 3. Môn học luật hiến pháp
1. Cách hiểu về chủ nghĩa hiến pháp
Những người theo chủ nghĩa hiến pháp cho rằng đời sống chính trị của xã hội như được "hiến phán hóa”, hiến pháp trở thành chuẩn mực, tiêu chí gạ xem xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội. Nhìn nhận các hiện tượng xã hội đều từ góc nhìn hiến pháp, đều thông qua lăng kính hiến pháp, trở thành một đặc trưng tiêu biểu cho sinh hoạt của một xã hội, bị chỉ phối bởi giáo điều hiến pháp. Mọi người như luôn luôn đặt câu hỏi: “Việc đó có hợp hiến không?”.
Tư tưởng về hiến pháp như một luật cơ bản, hiện thân của những giá trị xã hội cơ bản gắn liền với cuộc đấu tranh giành quyền sống, các quyền con người cơ bản chống lại nền chuyên chế, độc tài của vua quan phong kiến, ra đời từ cuộc vận động cách mạng của giai cấp tư sản và các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột tàn bạo. Trong các xã hội phong kiến, tình hình phổ biến là nền thống trị của giai cấp địa chủ, quý tộc và vương triểu vua chúa mang nặng tính bạo lực công khai, trắng trợn. Các tầng lớp xã hội bị phân chia thành các đẳng cấp khác biệt nhau gay gắt về địa vị, thân phận xã hội. Vua chúa có những quyền hành vô hạn trong khi đông đảo quần chúng nhân dân ở vào tình trạng vô quyền, các quyền làm người tối thiểu luôn bị khinh miệt, o ép và rất dễ bị chà đạp. Giai cấp tư sản vốn là một bộ phận dân cư trong các giai cấp bị áp bức, thường được gọi là đẳng cấp thứ ba, cũng phải gánh chịu ách thống trị, áp bức của vua quan phong kiến. Đồng thời, trong lòng xã hội phong kiến, giai cấp tư sản lại tà giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất có ưu thế rõ rệt so với phương thức sản xuất phong kiến. Giai cấp tư sản lại bước lên vũ đài chính trị khi sự phát triển của khoa học, KĨ thuật đã thu được những thành tựu vĩ đại, chứng tổ khả năng sáng tạo to lớn của con người, khi trào lưu văn hóa Phục hưng làm sống lại và tạo môi trường, không gian cho sự kiến tạo một nền văn hóa mới trên cơ sở kế thừa, phát huy những thành tựu, những giá trị của nền văn minh Hi Lạp, La Mã cổ đại. Trào lưu Khai sáng đã đưa lại sự mở mang lớn về mặt trÍ tuệ và lòng tin vào chính con người và khả năng của con người giải phóng khỏi bóng ma của thần quyên mà bao thế kỉ đã gông cùm trí tuệ loài người. Trong điều kiện đó, giai cấp tư sản đứng ra phất ngọn sử tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái để tập hợp quấn chúng nhân dân lao động lật đổ chế độ vua quan phong kiến. Khẩu hiệu lập hiến, chủ nghĩa hiến pháp, thuyết tam quyền phân lập… đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Thực chất của chủ nghĩa hiến pháp thể hiện ở yêu sách ban hành một hiến pháp như là một nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh. Theo đó, có hiến pháp thì có tất cả: Dân chủ, tự do, bình đẳng; hết chuyên chế, hết độc đoán chuyên quyền. Ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được trao vào tay các cơ quan khác nhau để chế ước, kiềm chế lẫn nhau. Hiến pháp cũng là cơ sở để xây dựng một nhà nước pháp quyền, trong đó người cầm quyền du ở chức vụ nào đều phải lấy pháp luật làm chuẩn mực.
Khẩu hiệu lập hiến, chủ nghĩa hiến pháp có những yếu tố tích cực, nhưng khi để cao nó theo cách tuyệt đối hóa thì dễ dàng tạo ta trong tâm lí đông đảo quần chúng, nhất là khi cuộc đấu tranh có lúc phải thoái trào, “Ảo tưởng hiến pháp”, cho rằng chỉ cần có được một hiến pháp là có tất cả và cuộc đấu tranh cần dừng lại khi đã có một hiến pháp. V.I. Lênin đã phê phán mạnh mẽ “ảo tưởng hiến pháp”, thấy trong đó có một thứ bùa mê có thể ru ngủ những bộ phận quần chúng nhất định làm họ xa rời cuộc đấu tranh thực chất vì những quyền lợi cơ bản của người lao động.
2. Khoa học luật hiến pháp là gì ?
2.1 Đối tượng nghiên cứu của khoa học luật hiến pháp
Nói tới một ngành khoa học tức là nói tới tập hợp tất cả tri thức được hình thành qua quá trình nghiên cứu một đối tượng nào đó. Như vậy, nếu ngành luật có đối tượng điều chỉnh thì khoa học pháp lý có đối tượng nghiên cứu.
Nói một cách chung nhất, đối tượng nghiên cứu của khoa học luật hiến pháp Việt Nam chính là ngành luật hiến pháp; nói cách khác, khoa học luật hiến pháp nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan tới ngành luật hiến pháp. Mục đích của khoa học luật hiến pháp là làm sáng tỏ tất cả tri thức liên quan tới ngành luật hiến pháp và từ đó xây dựng được các chế định, quy phạm luật hiến pháp phù hợp với từng thời kì phát triển của lịch sử.
ở góc độ tương đối cụ thể, khoa học luật hiến pháp tập trung nghiên cứu một số nhóm đối tượng sau:
- Các vấn đề lý luận về ngành luật hiến pháp;
- Các quan điểm, tư tưởng, chính sách, mô hình tổ chức, hoạt động làm nền tảng hình thành các chế định, quy định cụ thể của ngành luật hiến pháp;
- Các chế định, quy định cụ thể của ngành luật hiến pháp trong từng giai đoạn lịch sử;
- Thực tiễn áp dụng, thi hành các chế định, quy định cụ thể của ngành luật hiến pháp trong từng giai đoạn lịch sử.
Khoa học luật hiến pháp Việt Nam nghiên cứu ngành luật hiến pháp Việt Nam từ hai góc độ:
- Về thời gian: Khoa học luật hiến pháp nghiên cứu ngành luật hiến pháp không những trong thực tại mà cả trong quá trình lịch sử cũng như tương lai. Tất nhiên, các nghiên cứu về ngành luật hiến pháp trong tương lai là những nghiên cứu mang tính dự báo sự phát triển của ngành luật này.
- Về không gian: Khoa học Luật hiến pháp nghiên cứu không chỉ ngành Luật hiến pháp Việt Nam mà còn nghiên cứu ngành luật này trong sự so sánh với ngành Luật hiến pháp của các quốc gia khác trên thế giới.
2.2 Phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hiến pháp
Phương pháp nghiên cứu là các cách thức, biện pháp mà một ngành khoa học áp dụng để tìm kiếm và xử lý các thông tin liên quan tới đối tượng nghiên cứu nhằm đạt được tri thức về đối tượng nghiên cứu. Khoa học Luật hiến pháp là một môn khoa học xã hội cho nên khoa học này cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ biến của các khoa học xã hội, bao gồm các phương pháp như phương pháp duy vật biện chứng, lịch sử, mô tả, phân tích, so sánh, thống kê.
Bên cạnh các phương pháp nêu trên, khoa học Luật hiến pháp cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của các khoa học pháp lý, đó là phương pháp luật học kinh điển. Bằng phương pháp này, người nghiên cứu tập trung phân tích, làm rõ các quy phạm pháp luật, các chế định từ các nguồn luật của ngành Luật hiến pháp của Việt Nam và các nước, đặc biệt là trong mối liên hệ giữa chúng để làm rõ tư tưởng, nội dung của Luật hiến pháp điều chỉnh về một vấn đề cụ thể nào đó.
2.3 Hệ thống khoa học luật hiến pháp
Nếu hệ thống ngành Luật hiến pháp bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp thì hệ thống khoa học Luật hiến pháp bao gồm tổng thể tri thức có được của khoa học Luật hiến pháp khi nghiên cứu ngành Luật hiến pháp, được sắp xếp một cách có hệ thống theo các đối tượng nghiên cứu cụ thể của nó, bao gồm:
- Tri thức về các vấn đề lý luận của ngành Luật hiến pháp;
- Tri thức về các chế định, quy định cụ thể của ngành Luật hiến pháp, bao gồm cả tri thức về các quan điểm, tư tưởng, chính sách, mô hình tổ chức, hoạt động có liên quan;
- Tri thức về thực tiễn áp dụng, thi hành các chế định, quy định cụ thể của ngành luật hiến pháp.
Do thực tiễn của ngành luật hiến pháp luôn có sự vận động, ngành luật hiến pháp cũng luôn cần có sự bổ sung, thay đổi cho phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu đó, hệ thống tri thức của khoa học luật hiến pháp, bên cạnh nhóm tri thức đã được khẳng định và có tính ổn định cao, cũng luôn được bổ sung tri thức mới phù hợp với tình hình. Có thể nói hệ thống khoa học luật hiến pháp là một thực thể luôn được bổ sung và phát triển.
2.4 Mối liên hệ giữa khoa học luật hiến pháp và các ngành khoa học pháp lý khác
Do ngành luật hiến pháp có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam nên khoa học luật hiến pháp cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành khoa học pháp lý khác. Kiến thức của khoa học luật hiến pháp thường là cơ sở lý luận để hình thành và phát triển kiến thức của các ngành khoa học pháp lý nghiên cứu các ngành luật cụ thể. Mối quan hệ này thực ra nằm trong một quy luật chung của luật học. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp là các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng làm cơ sở hình thành các quan hệ xã hội cụ thể là đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu để hình thành quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan họng nhất cũng là cơ sở để nghiên cứu hình thành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể dựa trôn các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng đó. Ví dụ, khi nghiên cứu để xây dựng Bộ luật hình sự, các nhà khoa học pháp lý phải tham khảo tri thức của khoa học luật hiến pháp về các quyền dân sự cơ bản của người dân, đặc biệt là các quyền dân sự cơ bản đã được quy định trong Hiến pháp; khi nghiên cứu xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự, tất yếu phải tham khảo tri thức của khoa học luật hiến pháp về các quyền cơ bản của người dân trong lĩnh vực tư pháp cũng như các công trình nghiên cứu của khoa học luật hiến pháp về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân ...ở chiều ngược lại, kiến thức của các ngành khoa học pháp lý khác góp phần bổ sung và làm rõ hơn kiến thức của khoa học Luật hiến pháp, ví dụ kiến thức của khoa học luật tố tụng hình sự sẽ góp phần bổ sung cho khoa học Luật hiến pháp về mức độ bảo đảm các quyền cơ bản hiến định của người dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Ngoài mối quan hệ chặt chẽ với các khoa học pháp lý nghiên cứu các ngành luật cụ thể, khoa học Luật hiến pháp cũng có mối quan hệ mật thiết với khoa học nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Trên thực tế, kiến thức của khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật đóng vai trò làm cơ sở lý luận chung, cung cấp các khái niệm nguồn cơ bản cho các ngành khoa học pháp lý nghiên cứu các ngành luật cụ thể, trong đó có ngành Luật hiến pháp. Các khái niệm như đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, hệ thống ngành luật, QUY PHẠM PHÁP LUẬT, chế định pháp luật v.v. đều là các khái niệm nguồn của luật học được nghiên cứu và phát triển bởi khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Các khái niệm này được sử dụng một cách thống nhất trong các ngành khoa học pháp lý cụ thể và qua đó bảo đảm sự thống nhất trong kho tàng tri thức của khoa học pháp lý Việt Nam.
2.5 Khoa học luật hiến pháp Việt Nam và khoa học luật hiến pháp của thế giới
Mỗi quốc gia hiện đại trên thế giới đều có ngành Luật hiến pháp riêng. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi quốc gia đều có khoa học Luật hiến pháp của mình. Tất nhiên, bề dày lịch sử của khoa học Luật hiến pháp ở mỗi quốc gia là khác nhau do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá khác nhau. Có những quốc gia hình thành nền dân chủ từ sớm và do đó đã có khoa học Luật hiến pháp từ rất lâu, ví dụ Anh Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Đức; ở những quốc gia đang phát triển xuất hiện khoa học Luật hiến pháp ở giai đoạn muộn hơn, chủ yếu gắn với phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ hoá.
Ở Việt Nam, khoa học Luật hiến pháp bắt đầu được hình thành trong giai đoạn giành độc lập dân tộc (1946) mà sản phẩm là việc ban hành Hiến pháp năm 1946. Trong giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước cho tới trước đổi mới (1954 - 1986), khoa học Luật hiến pháp của Việt Nam chịu ảnh hưởng toàn diện bởi quan điểm Mác - Lênin của khối các nước xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô cũ. Kể từ sau đổi mới cho tới nay, khoa học Luật hiến pháp của Việt Nam dù có bề dày còn khiêm tốn song càng ngày càng có nhiều sự hội nhập với khoa học Luật hiến pháp hiện đại trôn thế giới. Ngày càng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và truyền tải các thành tựu tinh hoa của kho tàng tri thức khoa học Luật hiến pháp hiện đại để ứng dụng một cách phù họp trong điều kiện của Việt Nam, ví dụ các khía cạnh cụ thể, chi tiết của Thuyết phân quyền, sự kiềm chế và đối trọng giữa các cơ quan nhà nước, tư tưởng bảo vệ quyền con người ...
3. Môn học luật hiến pháp
Môn học Luật hiến pháp là một môn khoa học pháp lý chuyên ngành được thiết kế trong chương trình đào tạo cử nhân luật của các trường đại học ngành Luật. Môn học Luật hiến pháp chứa đựng một phần tri thức Luật hiến pháp trong kho tàng tri thức của khoa học Luật hiến pháp Việt Nam. về cơ bản, môn học này cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học Luật hiến pháp như giới thiệu trên đây. Song, môn học Luật hiến pháp chủ yếu truyền đạt cho người học những nội dung kiến thức nền tảng, những tri thức đã được khẳng định và chính thống của khoa học Luật hiến pháp. Bên cạnh đó, môn học Luật hiến pháp cũng dẫn dắt người học tới những nội dung kiến thức mới, nằm ở ranh giới đang phát triển của khoa học Luật hiến pháp, thậm chí những nội dung kiến thức đang chứa đựng các quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, việc đề cập các nội dung kiến thức này không phải là trọng tâm của môn học và chỉ mang tính chất giới thiệu, gợi mở bởi chúng sẽ là đối tượng kiến thức trực tiếp của chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ luật chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)