- 1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
- 2. Đào được vàng thì có phải nộp lại cho cơ quan Nhà nước không?
- 2.1. Số vàng đào được là tài sản do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên
- 2.2. Số vàng đào được là tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm
- 2.3. Số vàng đào được là tài sản vô chủ
- 3. Đào được vàng không thông báo hoặc giao nộp cho Nhà nước có bị phạt không?
1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Quyền sở hữu được hình thành dựa trên những sự kiện có thực tế trong đời sống nhưng được Bộ luật Dân sự quy định về mặt pháp lý, từ đó tạo điều kiện cho chủ thể sở hữu tài sản cụ thể. Tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và thể chế quản lý của mỗi quốc gia, cách ghi nhận những sự kiện này cũng sẽ khác nhau. Từ đó, quyền sở hữu có thể thuộc một loại sở hữu cụ thể hoặc một hình thức khác.
Quyền sở hữu xuất phát từ các sự kiện pháp lý cụ thể. Các tình huống này được gọi là căn cứ xác nhận quyền sở hữu. Để làm rõ hơn, đây là những tình tiết trong thực tế được quy định bởi pháp luật, dẫn đến việc chủ thể nhất định có quyền sở hữu trên một tài sản cụ thể. Theo Điều 221 của Bộ luật Dân sự năm 2015, có 8 căn cứ xác nhận quyền sở hữu bao gồm:
- Quyền sở hữu do công việc lao động, sản xuất, kinh doanh hợp pháp hoặc sáng tạo ra sản phẩm sở hữu trí tuệ.
- Quyền sở hữu qua việc chuyển nhượng theo thỏa thuận hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quyền sở hữu do thu nhập từ hoa lợi hoặc lợi tức.
- Quyền sở hữu khi sáp nhập, trộn, chế biến tạo ra sản phẩm mới.
- Quyền sở hữu qua quá trình thừa kế tài sản.
- Quyền chiếm hữu theo quy định pháp luật đối với những tài sản như vật vô chủ, bị bỏ rơi, quên lãng hoặc gia súc, gia cầm bị mất, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.
- Quyền chiếm hữu khi sử dụng tài sản liên tục, công khai và theo quy định thời hiệu của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Đào được vàng thì có phải nộp lại cho cơ quan Nhà nước không?
Vàng là một tài sản và việc nộp lại cho Nhà nước sẽ phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể, như trong những trường hợp sau đây:
2.1. Số vàng đào được là tài sản do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên
Dựa trên Điều 230 của Bộ luật Dân sự năm 2015, việc xác định quyền sở hữu đối với vàng tìm thấy sẽ được xử lý như sau:
- Nếu biết thông tin của người đã mất vàng, người tìm thấy vàng cần thông báo hoặc trả lại cho họ.
- Trong trường hợp không rõ địa chỉ của người mất vàng, người tìm thấy vàng sẽ cần báo cáo và gửi cho UBND hoặc cơ quan công an cấp xã gần nhất để công bố thông tin về vàng tìm thấy. Sau 01 năm từ khi thông báo mà không tìm ra chủ sở hữu, vàng sẽ được xử lý như sau:
+ Vàng có giá trị không quá 10 lần mức lương cơ sở sẽ thuộc sở hữu của người tìm thấy.
+ Vàng có giá trị vượt quá 10 lần mức lương cơ sở: Người tìm thấy sẽ nhận 10 lần mức lương cơ sở và 50% giá trị vượt quá mức này. Phần còn lại, sau khi trừ chi phí bảo quản, sẽ được chuyển đến Nhà nước.
+ Vàng mang giá trị lịch sử hoặc văn hóa sẽ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, và người tìm thấy sẽ nhận được tiền thưởng.
Nếu số vàng tìm thấy được xác định là di sản lịch sử - văn hóa theo Luật Di sản Văn hóa, thì vàng đó thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Điều này có nghĩa rằng, nếu vàng tìm thấy là tài sản mà ai đó đã mất hoặc bỏ quên, người tìm thấy chỉ cần trả lại cho Nhà nước nếu vàng thuộc loại di sản lịch sử - văn hóa. Trong trường hợp vàng không thuộc loại này, sau 01 năm kể từ khi thông báo, vàng sẽ thuộc quyền sở hữu của người tìm thấy nếu giá trị của nó không vượt quá 10 lần mức lương cơ sở. Nếu vượt quá, người tìm thấy sẽ nhận thêm 50% giá trị phần vượt quá, và phần còn lại sẽ thuộc về Nhà nước.
2.2. Số vàng đào được là tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm
Dựa trên Điều 229 của Bộ luật Dân sự 2015 về quyền sở hữu đối với tài sản tìm thấy bị chôn, giấu hoặc chìm đắm, nguyên tắc xác định quyền sở hữu tương tự như khi tìm thấy vàng bị mất hoặc bỏ quên. Khi tìm thấy vàng, người tìm thấy cần thông báo hoặc giao nộp cho UBND hoặc cơ quan công an cấp xã gần nhất. Quyền sở hữu vàng được xác định như sau:
- Nếu vàng là di sản lịch sử - văn hóa: Vàng thuộc sở hữu của Nhà nước và người tìm thấy sẽ được nhận tiền thưởng.
- Nếu vàng không phải di sản:
+ Nếu giá trị vàng không vượt quá 10 lần mức lương cơ sở, vàng thuộc quyền sở hữu của người tìm thấy.
+ Nếu giá trị vàng vượt quá 10 lần mức lương cơ sở, người tìm thấy sẽ nhận 10 lần mức lương cơ sở và 50% giá trị vượt quá, còn lại sẽ thuộc về Nhà nước.
Trong tình huống này, nguyên tắc xác định quyền sở hữu vàng tương tự như mô tả trước đó. Nếu vàng được xác định là di sản lịch sử - văn hóa theo Luật Di sản Văn hóa, thì vàng đó sẽ thuộc về Nhà nước. Nếu vàng không thuộc loại di sản này, quyền sở hữu vàng sẽ do người tìm thấy giữ khi giá trị vàng không vượt quá 10 lần mức lương cơ sở. Trong trường hợp vượt quá, người tìm thấy sẽ được 10 lần mức lương cơ sở và 50% giá trị phần vượt quá, còn phần còn lại thuộc về Nhà nước. Điểm khác biệt ở đây là trong trường hợp trước đó, số vàng được xác định là tài sản của người khác mất hoặc bỏ quên và có thời hạn xác lập quyền sở hữu, trong khi tình huống này, pháp luật không chỉ rõ về thời hạn đó.
2.3. Số vàng đào được là tài sản vô chủ
The Bộ luật Dân sự 2015, trong Điều 228, đã đề cập đến việc quy định xác lập quyền sở hữu đối với những tài sản không có chủ hoặc không rõ ràng chủ sở hữu. Khi một người phát hiện vàng mà không biết rõ nguồn gốc hay chủ sở hữu, người đó có quyền sở hữu số vàng đó. Tuy nhiên, để đảm bảo minh bạch và công bằng, người tìm thấy vàng cần phải thông báo hoặc đến Uỷ ban nhân dân hoặc công an cấp xã địa phương. Mục đích chính của việc này là để họ có thể công bố thông tin về số vàng đã tìm thấy, giúp đến việc tìm chủ sở hữu tiềm năng.
Sau khi Uỷ ban nhân dân hoặc công an đã nhận vàng, họ sẽ tiến hành công bố thông tin liên quan đến việc này. Và sau một khoảng thời gian cụ thể, là 01 năm, nếu không có ai đến nhận và không xác định được chủ sở hữu, quyền sở hữu vàng sẽ chính thức chuyển sang tay người phát hiện vàng. Điều này nghĩa là, sau một quá trình thẩm định và chờ đợi, vàng sẽ được coi là tài sản của người phát hiện, và không cần phải được giao trả lại cho Nhà nước hay cơ quan chức năng nào khác.
3. Đào được vàng không thông báo hoặc giao nộp cho Nhà nước có bị phạt không?
Như đã trình bày, trong mọi tình huống, người khai thác vàng cần thông báo hoặc nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an xã gần nhất để xác định chủ sở hữu của vàng. Nếu không tuân theo, họ có thể bị xử lý theo luật hình sự về việc cố ý giữ lại tài sản không thuộc sở hữu của mình. Theo Điều 176 của Bộ luật Hình sự 2015, được chỉnh sửa và bổ sung vào năm 2017, nếu ai không trả tài sản có giá từ 10.000.000 đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng là di vật, cổ vật bị nhận nhầm hoặc tự tìm thấy, sau khi được yêu cầu trả lại theo quy định, sẽ phải chịu mức phạt từ 10.000.000 đến 50.000.000 đồng, hoặc cải tạo không giam giữ tùy trường hợp, từ 03 tháng đến 02 năm tù. Nếu vi phạm đối với tài sản trên 200.000.000 đồng hoặc bảo vật quốc gia, hình phạt là từ 01 năm đến 05 năm tù.
Do đó, nếu người khai thác vàng không thông báo hoặc chuyển giao cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã trong khu vực gần nhất và quyết định sử dụng vàng cho mục đích cá nhân, họ sẽ phải đối diện với các hình phạt sau đây:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, bị phạt cải tạo không giam giữ trong khoảng 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, trong trường hợp:
+ Giá trị của số vàng đào được nằm trong khoảng từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
+ Nếu giá trị của số vàng là dưới 10.000.000 đồng nhưng đó là di vật, cổ vật.
- Bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nếu số vàng đào được có giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc đây là bảo vật quốc gia.
Bài viết liên quan: Nhặt được của rơi mà không trả lại thì có vi phạm pháp luật không?
Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!