Hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng là kết cục tất yếu sẽ dẫn đến mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng mà cá nhân, tổ chức vi phạm...
1. Khái quát chung
Hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng là kết cục tất yếu sẽ dẫn đến mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những loại trách nhiệm tiền hợp đồng khác nhau như:hợp đồng vô hiệu, huỷ bỏ hợp đồng, đơn phương chấm dứt hợp đồng, bồi thường thiệt hại.
2. Hợp đồng vô hiệu
Trong giai đoạn tiền hợp đồng, có thể xuất hiện hai trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu, đó là vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 126 BLDS) và vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép (Điều 127). Quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng đều có thể xuất hiện sự nhầm lẫn và lừa dối. Những nhầm lẫn và lừa dối của giai đoạn xác lập hợp đồng (tiền hợp đồng) là nguyên nhân dẫn đến hậu quả pháp lý tiền hợp đồng.
Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp: giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được. Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu. Trong nhiều trường hợp, sự nhầm lẫn có thể xảy đến do lỗi của bên đối tác. Khi một bên có lỗi làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch mà xác lập giao dịch (ví dụ: Không đưa ra chỉ dẫn rõ ràng bằng tiếng Việt về công dụng của tài sản...) thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó. Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 126
BLDS năm 2015). Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ có thể là lỗi vô ý. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác thì khi đó sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Ví dụdùng thủ đoạn nói là vật tốt để bán với giá đắt…Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình. Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa, cưỡng ép chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép và toà án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy, những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép.
Cả hai trường hợp dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng đều xuất phát từ giai đoạn tiền hợp đồng. Nếu một trong các bên hoặc tất cả các bên đưa ra thông tin gây nhầm lẫn hay thông tin có tính lừa dối (từ lỗi cố ý hoặc vô ý) thì đều dẫn tới hậu quả “vô hiệu hợp đồng”. Sự nhầm lẫn và lừa dối của giai đoạn tiền hợp đồng có nhiều hình thức thể hiện, điều cốt yếu là bên bị thiệt hại chứng minh được lỗi tạo ra sự nhầm lẫn và lừa dối.
3. Hủy bỏ hợp đồng, đơn phương chấm dứt hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng vàđơn phương chấm dứt hợp đồng có những điểm giống nhau như sau:
Đều được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015
Đều có hậu quả là kết thúc việc thực hiện hợp đồng
Do một bên thực hiện
Điều kiện để áp dụng việc hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng là khi một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
Phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3. So sánh hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng
STT | Tiêu chí | Hủy bỏ hợp đồng | Đơn phương chấm dứt hợp đồng |
1 | Căn cứ pháp lý | Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015 | Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015 |
2 | Hậu quả pháp lý | Huỷ bỏ hợp đồng làm hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, tức là huỷ bỏ hợp đồng có giá trị hồi tố (tương tự hậu quả hợp đồng vô hiệu). Tuy nhiên, pháp luật có loại trừ một số nghĩa vụ vẫn phải thực hiện như nghĩa vụ phát sinh từ thoả thuận về bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm và giải quyết tranh chấp. | Vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng (người sử dụng lao động cung cấp thông tin tiền hợp đồng không trung thực theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 BLLĐ năm 2019 làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp động lao động) thì hợp đồng được chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. |
Hậu quả pháp lý | Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. | Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nữa. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên còn lại thanh toán phần nghĩa vụ mà mình đã thực hiện. |
Theo Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm đểđược hưởng tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường và không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm. Ngược lại, nếu “Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật”. Ngoàira, Điều 22 cũng ghi nhận hậu quả pháp lýlàhợp đồng bảo hiểm vô hiệu khi “bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối giao kết hợp đồng bảo hiểm”. Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành của Việt Nam không đề cập đến khái niệm hành vi gian lận bảo hiểm. Gian lận bảo hiểm là hành vi bất hợp pháp nhằm thu lợi bất chính của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Những hành vi gian lận bảo hiểm, trong một số trường hợp được hiểu là cung cấp thông tin sai sự thật trong giai đoạn tiền hợp đồng và là cơ sở của huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm. Sự huỷ bỏ hợp đồng là một biện pháp vừa mang ý nghĩa răn đe người vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sai sự thật trong giai đoạn tiền hợp đồng, vừa là cơ chế bảo đảm hiệu quả quyền lợi hợp pháp của bên còn lại. Biện pháp này đã thể hiện rõ sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng.
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo quy định của BLDS 2015, bồi thường thiệt hại trong giai đoạn tiền hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ bảo mật thông tin, nghĩa vụ trong đề nghị giao kết hợp đồng không phải là nghĩa vụ trong hợp đồng nên bồi thường thiệt hại được hiểu là trách nhiệm ngoài hợp đồng, và đây là một loại hậu quả pháp lý có thể phát sinh độc lập từ hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng khá lớn của pháp luật Civil Law (Pháp) nên quan điểm về bồi thường thiệt hại trong giai đoạn tiền hợp đồng như trên đây hoàn toàn dễ hiểu. Trong thực tế, các toà án khi giải quyết những vụ việc liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin, bảo mật thông tin cũng viện dẫn đến các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của giai đoạn tiền hợp đồng đi đến một số hệ quả nhất định. Nếu pháp luật không quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong giai đoạn tiền hợp đồng thì áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 387, Điều 131, Điều 407 và các điều từ 423 đến 428 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải BTTH tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm BTTH. Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Qua nghiên cứu có thể thấy, BLDS 2015 đã quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho bên bị thiệt hại. Theo đó, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện:
4.1 Một là, có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH tiền hợp đồng chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
4.2 Hai là, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm tiền hợp đồng là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
4.3 Ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm tiền hợp đồng và thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái vi phạm tiền hợp đồng và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi vi phạm trong giai đoạn tiền hợp đồng sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại. Giai đoạn tiền hợp đồng, hành vi trái pháp luật thường ở dạng cung cấp thông tin sai sự thật, không thực hiện việc bảo mật thông tin…làm thiệt hại cho bên còn lại. Mối quan hệ nhân quả được xác định nếu hậu quả là thiệt hại xảy ra được xác định do chính hành vi cung cấp thông tin sai sự thật hoặc không thực hiện nghĩa vụ bảo mật thông tin gây ra.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty Luật Minh Khuê