Mục lục bài viết
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
Theo Điều 360 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Bên cạnh trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại cho bên có quyền. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là trách nhiệm dân sự, trong đó, người vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác phải bồi thường những thiệt hại do hành vi của họ gây ra.
Theo tinh thần của Bộ luật dân sự năm 2015, yếu tố lỗi không phải là điều kiện bắt buộc đặt ra đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do đó, khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại việc chứng minh lỗi không cần được đặt ra. Tuy nhiên, trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ muốn thoát khỏi trách nhiệm bồi thường thì họ phải chứng minh được họ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại như thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết, do lỗi của người bị thiệt hại...
Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng chủ yếu trong dân sự bởi lẽ trong lĩnh vực dân sự, quan hệ tài sản là quan hệ phổ biến và trách nhiệm về tài sản cũng là trách nhiệm chủ yếu. Khi lợi ích về vật chất của một bên trong quan hệ bình đẳng bị xâm phạm thì việc khôi phục thiệt hại vật chất của một bên thông qua trách nhiệm bồi thường là một biện pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của bên bị vi phạm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng đối với cả hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng và ngoài hợp đồng.
Nguyên tắc bồi thường trong dân sự là bồi thường toàn bộ thiệt hại, tức là thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu. Tuy nhiên, nếu các bên thỏa thuận bồi thường thấp hơn hoặc cao hơn thì pháp luật cũng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Hoặc trong một số trường hợp bên gây thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế thì theo quy định của pháp luật có thể được giảm mức bồi thường.
2. Các loại thiệt hại phải bồi thường do vi phạm nghĩa vụ
Để trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng cho bên vi phạm nghĩa vụ thì điều kiện đầu tiên và không thể thiếu là phải có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế xác định được bằng giá trị vật chất cụ thể mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Thiệt hại phải được xác định và bên bị thiệt hại phải chứng minh được thiệt hại xảy ra thông qua chứng cứ được pháp luật công nhận. Thiệt hại không chỉ bao gồm những thiệt hại về vật chất mà còn bao gồm cả những tổn thất về tinh thần của bên bị xâm phạm. Theo khoản 1 Điều 361 Bộ luật dân sự 2015 thì "Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần".
Cũng tại Điều 361 Bộ luật dân sự 2015 thì:
Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể.
Thiệt hại về vật chất có thể phát sinh từ hành vi gây thiệt hại đối với tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc các quyền nhân thân khác.
Ví dụ: A thuê xe máy của B và gây tai nạn, chiếc xe bị hư hỏng nặng. Thiệt hại vật chất trực tiếp trong trường hợp này là giá trị sửa chữa chiếc xe bị hỏng mà B phải gánh chịu.
Những tổn thất về tinh thần có thể là những tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu do sự đau đớn hoặc buồn rầu do tổn hại về sức khoẻ hoặc do người thân bị mất hoặc do các lợi ích nhân thân bị xâm hại.
Thiệt hại về tinh thần về nguyên tắc là không thể tính toán được bởi lẽ không giống như đại lượng vật chất tồn tại khách quan thì giá trị tinh thần lại tồn tại chủ quan bên trong mỗi con người không thể cân, đo, đong, đếm được. Do đó, trong trường hợp này pháp luật thường dự liệu một khoản bù đắp để phần nào khôi phục lại tổn thất cho bên bị thiệt hại. Cụ thể được quy định tại các Điều 590, 591, 592 Bộ luật dân sự 2015.
Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể luật khác liên quan có thể có quy định riêng cách thức và mức thiệt hại về tinh thần làm cơ sở cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần như Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành...
3. Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
"Bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình" (Điều 362 Bộ luật dân sự 2015)
Như vậy, nếu bên có nghĩa vụ gây thiệt hại thì bên có quyền cũng phải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của bên có quyền trong việc giảm thiểu thiệt hại vì thực tế có nhiều trường hợp dù có thể ngăn cản thiệt hại nhưng bên có quyền để mặc thiệt hại xảy ra vì theo nguyên tắc chung bên có nghĩa vụ gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Trong một số trường hợp cụ thể Bộ luật dân sự đã ghi nhận những hậu quả mà bên có quyền trong trường hợp này phải gánh chịu. Ví dụ: Điều 449 về bồi thường thiệt hại trong thời hạn bảo hành tại khoản 2 có quy định “Bên bán không phải bồi thường thiệt hại nếu chứng minh được thiệt hại xảy ra do lỗi của bên mua. Bên bán được giảm mức bồi thường thiệt hại nếu bên mua không áp dụng các biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt hại. ” Hoặc khoản 4 Điều 585 quy định: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra". Bên cạnh đó khoản 5 cũng quy định: “Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường thiệt hại nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý đế ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình".
4. Bên bị vi phạm có lỗi thì bên vi phạm có phải bồi thường không?
Điều 363 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Điều 363. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị vi phạm có lỗi
Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Bộ luật dân sự năm 2015 mặc dù không ghi nhận lỗi như là một điều kiện bắt buộc phải chứng minh để làm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhưng về nguyên tắc yếu tố lỗi vẫn được xem xét đến. Trong một số trường hợp đặc thù, xác định hình thức và mức độ lỗi sẽ là căn cứ để xác định mức bồi thường.
Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Trường hợp bên bị vi phạm cũng có lỗi được hiểu là lỗi hỗn hợp tức là cả hai bên cùng có lỗi. Mặc dù có ghi nhận về hình thức lỗi cố ý và vô ý tại Điều 364 nhưng Bộ luật dân sự năm 2015 lại không có điều luật nào quy định về mức độ lỗi.
5. Lỗi trong trách nhiệm dân sự
Điều 364 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về lỗi trong trách nhiệm dân sự như sau:
Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý.
Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Mặc dù, điều luật không đưa ra định nghĩa về lỗi nhưng trong khoa học pháp lý lỗi được hiểu là thái độ tâm lí chủ quan của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện.
Là một yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường, mức độ bồi thường trong một số trường hợp nên điều luật đã đưa ra khái niệm và hình thức lỗi làm cơ sở để xác định trong từng trường hợp nhất định. Theo nội dung điều luật, lỗi được phân thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý.
- Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Trong dân sự, về nguyên tắc, việc phân biệt hình thức lỗi cố ý hay vô ý không có nhiều ý nghĩa. Nó chỉ có ý nghĩa trong những trường hợp ngoại lệ khi cần xác định trách nhiệm hoặc phạm vi bồi thường. Cụ thể, xác định được đúng hình thức và mức độ lỗi trong dân sự sẽ có ý nghĩa trong một số trường hợp sau:
- Xác định được căn cứ phát sinh trách nhiệm: Có những trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự nếu có lỗi cố ý. Ví dụ như khoản 4 Điêu 142 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Trường hợp người không có qưyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại."
- Có ý nghĩa trong việc giảm mức bồi thường: trong một số trường hợp người gây ra thiệt hại được giảm mức bồi thường nếu có lỗi vô ý. Ví dụ: khoản 2 Điêu 577 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc, người đó có thể được giảm mức bồi thường”.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Trân trọng./.