1. Mở đầu vấn đề

Triết học phương Tây nói chung và triết học phương Tây hiện đại là một hình thái lý luận của thế giới quan và nhân sinh quan của giai cấp tư sản, là sự phản ánh thực trạng xã hội tư bản chủ nghĩa ở những hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau. Việc tìm hiểu, học tập và nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại giúp chúng ta có được một nhận thức toàn diện, đúng đắn; thúc đẩy kết hợp giữa việc nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại của nước ta với việc nghiên cứu triết học chủ nghĩa Marx trong giai đoạn mới.

 

2. Hoàn cảnh lịch sử hình thành triết học Tây âu thời trung cổ

Xã hội Tây Âu thời trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIV). Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương Tây.

Sự hình thành vô số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra một chế độ phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tôn giáo nhất thần đã có cơ hội phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp phong kiến thống trị. Thiên chúa giáo - một dòng tôn giáo giữ truyền thống bảo thủ nhất của Cơ đốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu. Sự thống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự phát triển của khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản chất của CNDV gắn liền với khoa học, thời kì này đã không có điều kiện để phát triển.

Như vậy, thời kỳ này không chỉ có phong kiến quý tộc giữ vai trò thống trị mà giới tăng lữ, giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có của thần quyền, có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt nhiều thế kỷ, triết học và khoa học đã trở thành nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai người ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tôn giáo, phản bác, loại bỏ các tư tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thàn tiến bộ. Tình hình này đã cắt nghĩa sự đồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín điều của tôn giáo là những nguyên lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan.

Từ thế kỷ X đã diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm, cướp đoạt của cải của các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập) nhưng lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng đất thánh… Những cuộc chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài mong muốn của những người khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hoá Đông-Tây tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây Âu.

Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mù chữ, thất học, sống đơn điệu của các lãnh địa không thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉ trong vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời.

Tóm lại, từ lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ không phải là quá trình đứt đoạn của lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền văn minh mới, tạo cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch sử tương lai ở Châu Âu”.

 

3. Đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ

Như ở mục 2 vừa phân tích, triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ có một số đặc điểm sau đây:

- Đặc điểm thứ nhất: Triết học trung cổ là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự biện minh của thần học.

- Đặc điêm thứ hai: Trục trung tâm của tư tưởng triết học Trung cổ là mối quan hệ giữa niềm tin và tri thức.

- Đặc điểm thứ ba: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vậy và chủ nghĩa duy tâm không diễn ra quyết liệt như thời cổ đại mà ẩn mình trong xung đột giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh.

- Đặc điểm thứ tư: Con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong tội tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm người.

Dưới đây là hai nhà triết gia nổi tiếng của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ. 

 

4. Nhà triết gia Tômát Đacanh (1225-1274)

Triết học Tômát Đacanh là một sự kết hợp tinh xảo giữa các giáo lý Cơ Đốc giáo và triết học Arixtốt thành một hệ thống thần học thống nhất. Như chúng ta đều biết, trong triết học Trung cổ, đặc biệt là từ thế kỷ X đến thế kỷ XII, hai bộ phận cấu thành này của tri thức thông thái (mà khi đó được gọi là triết học) đã được xem như là những cái đối lập, mặc dù chúng vẫn được thừa nhận là cơ sở của tri thức về thế giới nói chung. Tômát Đacanh chính là người đã hợp nhất chúng lại thành một thứ triết học không mâu thuẫn về mặt logic và qua đó, đã đặt dấu chấm hết cho các cuộc tranh luận kéo dài trong Cơ Đốc giáo.

Nhà triết gia Tômát Đacanh là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.

Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực như: thần học, triết học, pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp thành bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh.

Tômát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”, còn đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên không có mâu thuẫn giữa thần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của người thấp hơn “lý trí của thần”. chủ nghĩa duy tâm của Tômát Đacanh thể hiện một cách công khai với quan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của Trời. Trật tự đó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn, tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối cùng là bản thân Chúa Trời. Mỗi bậc dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới Chúa Trời. Con người do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo những đẳng cấp khác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi đẳng cấp của mình là có tội với Chúa Trời. Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của Trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội.

Đứng trên lập trường duy thực ôn hoà, Tômát Đacanh giải quyết vấn đề bản chất của cái chung.

Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện:

- Phương diện thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa Trời như là hình mẫu của sự vật riêng lẻ.

- Phương diện thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật riêng lẻ.

- Phương diện thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ con người từ các sự vật riêng lẻ.

Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh khôi phục về mặt hình thức lý thuyết hình dạng của Arixtot nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học thuyết của Arixtot. Theo Tômát Đacanh, nhận thức của con người là hình dạng của sự vật chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính. Trong đó hình dạng cảm tính có vai trò quan trọng, nhờ đó mà cảm giác trở nên cảm thụ tích cực. Còn hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính, nhờ đó mà ta biết đươc cái chung chứa đựng trong nhiều sự vật riêng lẻ. Lý luận nhận thức của Tômát Đacanh là một bước tiến mới trong triết học kinh viện trung cổ.

 

5. Nhà triết gia Rôgiê Bêcơn (1214 -1294)

R.Bêcơn (Roger Bacon, 1214-1294) là nhà triết học Anh chủ trương phê phán triết học kinh viện của Nhà thờ và chế độ phong kiến đương thời, đồng thời đề xướng khoa học thực nghiệm.

Theo R.Bêcơn, triết học mới phải là siêu hình học – khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận, cũng như đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản. Bản thân siêu hình học phải được xây dựng dựa trên thành quả của các khoa học đó. Quan điểm này chống lại quan điểm cũ coi triết học phải phục vụ thần học.

R.Bêcơn đã phê phán gay gắt tính chất vô dụng của phương pháp kinh viện. Theo ông, con đường đi đến chân lý của chúng ta bị tắt bởi 4 trở ngại sau: một là, sự sùng bái trước cái uy tín không có cơ sở; hai là, thói quen thừa nhận những quan niệm được coi là rõ ràng; ba là, tính vô căn cứ của những đánh giá thuộc về số đông; bốn là, sự thông thái giả tạo của các nhà bác học rởm. Từ đó, ông cho rằng, nguồn gốc của nhận thức phải bao gồm uy tín, lý trí, kinh nghiệm, trong đó, kinh nghiệm là quan trọng nhất. Theo ông, uy tín không được chứng minh là uy tín thiếu sót; còn lý trí (hay kết luận của nó) không được kiểm chứng bằng kinh nghiệm, thực nghiệm thì chỉ là lý trí ngụy biện, giáo điều…

Rôgiê Bêcơn là một triết gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổng hợp Paris.

Tác phẩm chính của Rôgiê Bêcơn như là:

- Về sư kéo dài sự sống của con người

- Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học

- Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học

- Tiểu phẩm ca ngợi toán học

- Về cầu vồng

- Triển vọng

- Về sai lầm của các bác sĩ…

Rôgiê Bêcơn được xem là người đề xướng vĩ đại nhất khoa học thực nghiệm, Rôgiê Bêcơn phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa kinh viện, giáo hội và nhà nước phong kiến. Là một tu sĩ nhưng ông đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của giáo hội. 

Rôgiê Bêcơn đã đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học có ý nghĩa  quan trọng trong việc đấu tranh chống triết học kinh viện, mở đường cho mối quan hệ giữa triết học và các khoa học bộ phận.

Theo Rôgiê Bêcơn, triết học là khoa học chung giải thích mối quan hệ giữa khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản, và bản thân triết học được xây dựng trên những thành quả của khoa hoc đó.

Sự phê phán sâu sắc và thông minh của Rôgiê Bêcơn đối với chủ nghĩa kinh viện là đóng góp có giá trị và tiến bộ trong thời đại của ông. R.Bêcơn nêu ra những nguyên nhân cản trở chân lý là do:

- Sự sùng bái trước các uy tín không có căn cứ và không xứng đáng;

- Do thói quen lâu đời đối với những quan niệm đã có;

- Do tính vô căn cứ của những phán đoán về số đông;

- Do sự che dấu những điều ngu dốt của các nhà bác học dưới cái mác của sự thông thái hư ảo. Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và thực nghiệm; kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Trong tri thức khoa học “Không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”.

Đối lập với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học, R.Bêcơn hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Ông coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học. Bản thân ông đã có nhiều đóng góp cho khoa học thực nghiệm.

- Về xã hội: Rôgiê Bêcơn cũng có những tư tưởng tiến bộ. Rôgiê Bêcơn bênh vực quyền lợi của nhân dân, lên án sự áp bức bóc lột của phong kiến. Ông chống giáo hoàng và bóc trần những xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng ông không chống tôn giáo nói chung.

=> Tóm lại, triết học của R.Bêcơn bộc lộ xu hướng duy vật. Ông đã nắm bắt được những biến đổi xã hội vừa mới xuất hiện và đi trước thời đại của ông trong những mơ ước và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn bị nhà nước phong kiến giáo hội truy nã, cầm tù. Tuy nhiên bên cạnh đó, ông cũng không thể thoát khỏi những hạn chế trong thời đại của mình - thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ. Vì vậy, bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, ông tuyên bố: triết học phụ thuộc vào lòng tin, và ông cũng dành thời gian để nghiên cứu tính chất rõ ràng của tư tưởng xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của của Thượng đế, và về “lý trí của hoạt động tiên nghiệm”. Tuy nhiên, mang những mầm mống duy vật - đấu tranh dai dẳng chống lại trào lưu duy thực – cùng với một số tư tưởng khoa học tự nhiên tiên tiến, trào lưu duy danh đã góp phần khai tử chủ nghĩa kinh viện vào thế kỷ XV và chuẩn bị cho sự ra đời của triết học thời Phục hưng và cận đại.

 

(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và biên tập).