1. Những yếu tố tiền đề

Như đã đề cập ở trên, việc thay đổi nhận thức về chủ quyền đối nội tuyệt đối của các nhà nước là cánh cửa mở ra với việc hình thành và phát triển của luật nhân quyền quốc tế. Một số nghiên cứu cho thấy rằng, sự thay đổi đó bắt nguồn từ việc các quốc gia bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân mình ở nước ngoài. Đây là hiện tượng đã diễn ra từ lâu trong lịch sử loài người nhưng chỉ có những chuyển biến bước ngoặt vào thế kỷ XVIII ở châu Âu – thời kỳ mà châu lục này bị phân chia rất mạnh mẽ thành các quốc gia phong kiến tập quyền. Sự phân chia các đường biên giới cùng với hoạt động giao thương nhộn nhịp ở khu vực này tất yếu dẫn đến những tranh chấp pháp lý liên quan đến công dân của một nước này và công dân hay chính quyền của một nước khác. Trong bối cảnh đó, hệ thống pháp luật của các quốc gia có liên quan chịu sức ép phải đề ra các biện pháp nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài. Ngay trong thời kỳ đó, quá trình đấu tranh, đàm phán, thỏa hiệp và nhượng bộ đã dẫn tới sự ra đời của những quy định về quyền của người nước ngoài trong pháp luật của một số quốc gia phong kiến châu Âu. Mặc dù những quy định về vấn đề này còn ở mang tính sơ khai, nhưng ở mức độ nhất định, chúng đã mở đầu cho việc xác định những giới hạn thực tế về mặt pháp lý của chủ quyền quốc gia trong các vấn đề nội bộ. Cũng do vấn đề người nước ngoài, ở châu Âu vào thế kỷ XIX đã diễn ra nhiều cuộc can thiệp vũ trang của một hoặc một nhóm quốc gia này vào quốc gia khác với lý do bảo vệ các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc hay tôn giáo của nước mình mà được cho là đang bị áp bức ở nước khác. M ột số ví dụ như hai cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ cộng đồng người Hy lạp và người Thiên chúa giáo đang sống ở trong lãnh thổ đế chế Ốt-tô-man vào các năm 1827 và 1876; hay cuộc chiến tranh với lý do tương tự chống Sy-ri diễn ra năm 18601...Kết quả của những cuộc can thiệp vũ trang này là một loạt hiệp định về người thiểu số đã được ký kết ở châu Âu sau khi kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong đó thừa nhận các quyền sống; quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng; quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền không bị phân biệt đối xử; quyền được sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình..,.của các nhóm thiểu số. Ở góc độ và phạm vi nhất định, những hiệp định này đã vượt ra khỏi ý nghĩa ban đầu của chúng là bảo vệ các nhóm thiểu số ở nước ngoài và đặt tiền đề cho những nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản của luật nhân quyền quốc tế sau này, đó là sự bình đẳng, tự do và không bị áp bức của tất cả mọi người. Cũng trong khoảng thời gian từ th ế kỷ XVII đến hết thế kỷ XIX, phong trào chống mua bán nô lệ và xoá bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở châu Âu, châu M ỹ và châu Phi. Một trong những thành công có tính bước ngoặt của phong trào này là việc ký kết hiệp ước xóa bỏ việc buôn bán nô lệ giữa các nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan ở Viên vào năm 1815. Hiệp ước này đã đặt nền móng cho một nguyên tắc quan trọng nhất của luật nhân quyền quốc tế, đó là nguyên tắc về tôn trọng nhân phẩm. Nguyên tắc này, cùng với những tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với người thiểu số đạt được trong các hiệp định ký kết ở châu Âu trong thế kỷ XIX sau đó đã trở thành một phần của luật tập quán quốc tế và được tái khẳng định trong các văn kiện quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc. Những năm đầu thế kỷ XX, với việc thành lập hai tổ chức quốc tế lớn là Hội quốc liên và Tổ chức Lao động quốc tế (cùng được thành lập vào năm 1919), quyền con người đã trở thành một vấn đề có tầm quốc tế ngày càng rộng lớn. Hai tổ chức này đã nâng nhận thức và những bảo đảm về quyền con người lên một mức độ mới. Tổ chức Lao động quốc tế, trong Điều lệ của mình đã đưa ra một cách nhìn nhận đó là, hoà bình trên thế giới chỉ có thể được thực hiện nếu được dựa trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Trong Thoả ước của Hội quốc liên, các nước thành viên của tổ chức này chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì sự công bằng và các điều kiện nhân đạo về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em, cũng như bảo đảm sự đối xử xứng đáng với những người bản xứ tại các thuộc địa của họ. Cũng trong thời kỳ này, một loạt văn kiện của luật nhân đạo quốc tế đã được thông qua trong Hội nghị La Hay, các hội nghị của Hội Chữ Thập đỏ quốc tế (ICRC) và của Hội Quốc liên, bổ sung những bảo đảm ngày càng rộng rãi hơn với tính mạng, đời sống và nhân phẩm con người cả trong thời bình và trong hoàn cảnh xung đột vũ trang. Ở đây, mặc dù chưa hoặc ít đề cập đến các quyền con người cụ thể, song những tư tưởng và nguyên tắc về quyền con người đã được pháp điển hóa ở những mức độ nhất định trong các điều ước này. Trong một số văn kiện, ví dụ như Công ước về Nô lệ của Hội Quốc Liên (năm 1926) và các điều ước do ILO ban hành trong những thập kỷ đầu của thế kỷ này nhằm cải thiện các điều kiện làm việc và đời sống của người lao động đã đề cập một cách khá cụ thể đến các quyền con người. Đáng tiếc là xét về các phương diện khác, những văn kiện này chưa vượt qua được nguyên tắc truyền thống trong đó luật quốc tế chỉ điều chỉnh quan hệ giữa các nhà nước, chứ không điều chỉnh quan hệ giữa các công dân với các nhà nước, bởi vậy, chúng chưa chính thức trở thành một văn kiện quốc tế về quyền con người.

2. Chiến tranh thế giới thứ hai - cú hích quyết định với sự ra đời của luật nhân quyền quốc tế

Nếu như những tiền đề lịch sử là cơ sở sâu xa thì những ký ức khủng khiếp về sự tàn bạo của chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai đóng vai trò là chất xúc tác cơ bản dẫn đến việc hình thành ngành luật nhân quyền quốc tế. Ngay từ khi cuộc chiến tranh thế giới này còn đang diễn biến ác liệt, các nước Đồng minh đã nhận thức được sự cần thiết phải thành lập một tổ chức quốc tế với những cơ chế pháp lý mạnh mẽ nhằm bảo đảm cho nhân dân thế giới không bao giờ phải chịu những hoàn cảnh bi thảm về quyền con người như chủ nghĩa phát xít đã và đang gây ra. Những luận thuyết phản động về “dân tộc thượng đẳng”, tiếp nối sau đó là các cuộc thảm sát, diệt chủng với người Do Thái và nhân dân các dân tộc khác của chủ nghĩa phát xít trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã chứng minh rõ ràng mối quan hệ giữa sự tôn trọng quyền con người và việc duy trì hoà bình. Nói cách khác, kinh nghiệm của cuộc chiến tranh thế giới này cho phép nhận định rằng, sự bảo vệ quốc tế một cách thực sự và có hiệu quả với các quyền con người là điều kiện cốt yếu của hòa bình và tiến bộ quốc tế. Nhận định này đã được nêu trong nhiều văn kiện do phe Đồng minh đưa ra trước năm 1945. Ví d ụ, Hiến chương Atlantic năm 19411 đã đề cập việc “...thiết lập một nền hoà bình mà có thể giúp tất cả các dân tộc có khả năng được sống an toàn trong lãnh thổ của họ cũng như bảo đảm cho tất cả mọi người ở mọi khu vực trên trái đất có thể sống một cuộc sống tự do, không bị sợ hãi và thiếu thốn”. Tuyên ngôn của các nước Đồng minh năm 19422 đã bày tỏ sự tin tưởng rằng “…thắng lợi hoàn toàn của cuộc chiến chống kẻ thù (chủ nghĩa phát xít) là điều cốt yếu để bảo vệ cuộc sống tự do, độc lập, các quyền con người và công lý trên trái đất…" Các cuộc hội đàm ở Dumbarton Oaks (Hoa Kỳ) giữa bốn cường quốc của phe Đồng minh là Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc (Trung hoa Dân quốc) và Liên Xô vào năm 19443 đã dẫn đến sự ra đời của bản Kế hoạch Dumbarton Oaks. Bản kế hoạch này dự kiến thiết lập một tổ chức quốc tế có tên là “Liên hợp quốc” mà trong các mục tiêu của tổ chức này, có việc: “... thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người”. K ế hoạch Dumbarton Oaks là cơ sở cho chương trình làm việc của H ội nghị các nước Đồng minh về việc thành lập một tổ chức quốc tế mới có tên là Liên hợp quốc, được khai mạc tại Xan Phranxixcô (Hoa Kỳ) ngày 25-4-1945 với đại diện của 50 quốc gia trên thế giới. Hội nghị đã bổ sung thêm một số điều khoản trong bản Kế hoạch để chuẩn bị cho văn bản cuối cùng của Hiến chương Liên hợp quốc. Bản Hiến chương này sau đó đã được ký kết vào ngày 26-6-1945 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24- 10-1945, đánh dấu cột mốc quan trọng trong sự phát triển của luật quốc tế nói chung và của luật nhân quyền quốc tế nói riêng.

3. Hiến chương Liên hợp quốc – văn kiện nền tảng của luật nhân quyền quốc tế

Mặc dù quyền con người không phải là chủ đề duy nhất cũng như là chủ đề chính của Hiến chương Liên hợp quốc, tuy nhiên, có thể coi đây là văn kiện đã xác lập nền tảng của luật nhân quyền quốc tế. Điều này trước hết là bởi Hiến chương đã khẳng định việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc – tổ chức liên chính phủ lớn và có quyền lực nhất trên thế giới. Thêm vào đó, trong Hiến chương, vấn đề quyền con người được đề cập khá cụ thể tại Lời nói đầu và nhiều điều khoản. Lời nói đầu của Hiến chương khẳng định ý chí của các dân tộc trong Liên hợp quốc: “...phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm hoạ chiến tranh .. đã gây cho nhân loại những đau thương không kể xiết”, “... tin tưởng vào những quyền con người cơ bản, vào nhân

phẩm và giá trị của con người, vào các quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia lớn và nhỏ..” và bày tỏ quyết tâm của các dân tộc nhằm: “...thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong một nền tự do rộng rãi hơn”. Điều 1 của Hiến chương quy định các mục tiêu hoạt động của tổ chức này, theo đó, Liên hợp quốc theo đuổi các mục đích: (1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế..; (2) Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc; (3) Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế xã hội, văn hoá hoặc các vấn đề nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Như vậy, một trong ba mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc hướng trực tiếp vào vấn đề quyền con người. Ngoài ra, việc thực hiện hai mục tiêu khác cũng liên quan chặt chẽ tới vấn đề này. M ột loạt điều khoản khác trong Hiến chương đã tái khẳng định và cụ thể hoá mục tiêu của Liên hợp quốc trên lĩnh vực quyền con người. Cụ thể, Điều 55 quy định: “Với mục đích nhằm tạo những điều kiện ổn định và hạnh phúc cần thiết để duy trì quan hệ hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, dựa trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, Liên hợp quốc sẽ thúc đẩy:... “(c) …sự tôn trọng và tuân thủ toàn cầu các quyền và tự do cơ bản của con người cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Điều 56 nêu rõ: “Tất cả các quốc gia thành viên cam kết tiến hành các hành động chung hoặc riêng trong sự hợp tác với Liên hợp quốc để đạt được những mục tiêu quy định tại Điều 55”. Không chỉ quy định về mục tiêu, nhiều điều khoản trong Hiến chương còn thiết lập những nguyên tắc cơ bản về cơ cấu tổ chức, cách thức thực hiện mục tiêu của Liên hợp quốc về quyền con người. Ví dụ, Khoản 1 (b) Điều 13 đề cập trách nhiệm của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong việc nghiên cứu và thông qua các khuyến nghị nhằm thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế và  thực hiện các quyền và tự do cơ bản của con người. Các khoản 2,3,4 Điều 62, Điều 64, Điều 68 đề cập trách nhiệm và quyền hạn cụ thể của Hội đồng Kinh tế và Xã hội trong việc tổ chức và phối hợp các hoạt động, nhằm thực hiện mục tiêu của Liên hợp quốc về quyền con người... Những quy định kể trên là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống các văn kiện quốc tế và một cơ chế hành động của Liên hợp quốc trên lĩnh vực quyền con người trong những năm tiếp theo. Mặc dù vậy, có thể thấy rằng, Hiến chương Liên hợp quốc vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi quan điểm về tính vượt trội của chủ quyền quốc gia trong mối quan hệ với quyền con người. Điều này trước hết thể hiện ở việc mặc dù đã thừa nhận các quyền con người của cá nhân, song Hiến chương không có quy định về việc thành lập một ủy ban quốc tế độc lập với các chính phủ để bảo vệ và thúc đẩy các quyền này.Thay vào đó, Điều 68 Hiến chương đưa ra một giải pháp thỏa hiệp là Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) sẽ “thành lập các ủy ban trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội và thúc đẩy các quyền con người, cũng như các ủy ban khác nếu trong quá trình hoạt động cơ quan này xét thấy cần thiết” (thành phần của các ủy ban do ECOSOC thành lập đều bao gồm đại diện của các quốc gia thành viên). Đặc biệt, Khoản 7 Điều 2 Hiến chương nêu rằng: “Không một quy định nào trong Hiến chương cho phép Liên hợp quốc can thiệp vào các vấn đề mà về bản chất thuộc thẩm quyền đối nội của các nhà nước, hoặc bắt buộc các quốc gia thành viên trình các vấn đề đó lên giải quyết bởi Liên hợp quốc, ngoại trừ các vấn đề quy định ở chương VII”. Liên quan đến mối quan hệ giữa quy định ở Khoản 7 Điều 2 của Hiến chương và vấn đề quyền con người, cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc B.Buotros Ghali đã cho rằng: “Mặc dù quy định này không đề cập cụ thể đến vấn đề quyền con người, song nội dung của nó rõ ràng cho thấy quyền lực rất hạn chế của Liên hợp quốc trong lĩnh vực này. Ở đây, quan niệm truyền thống về chủ quyền quốc gia còn thể hiện rất nặng nề”2. Một trong những giới hạn nữa của Hiến chương Liên hợp quốc trên lĩnh vực này đó là, văn kiện này mới chủ yếu nhấn mạnh sự “thúc đẩy” (promotion), chứ chưa đề cập đúng mức đến việc “bảo vệ” (protection) quyền con người. Dễ dàng thấy điều này trong nội dung của hai điều chủ chốt về quyền con người trong Hiến chương (các Điều 55 và 56). Ở các điều khoản khác có liên quan, các động từ chính được sử dụng thường là “nghiên cứu” (study), “xem xét” (examination) và “khuyến nghị” (recommendation), rõ ràng hàm ý các biện pháp thúc đẩy, chứ không phải bảo vệ quyền con người, do các khuyến nghị của Đại hội đồng Liên hợp quốc không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia thành viên. Duy nhất diễn đạt trong Điều 56 hàm ý rằng các quốc gia thành viên có nghĩa vụ xem xét các khuyến nghị do Liên hợp quốc đưa ra trên lĩnh vực quyền con người một cách nghiêm túc, và việc bác bỏ hoàn toàn các khuyến nghị đó được coi là trái với quy định của Điều này. Tóm lại, có thể thấy Hiến chương Liên hợp quốc không xác định những nghĩa vụ cụ thể về quyền con người cho các quốc gia. Tuy nhiên, Hiến chương vẫn được coi là văn kiện xác lập một nền tảng cho việc thiết lập các tiêu chuẩn và cơ chế quốc tế về quyền con người, bởi thông qua Hiến chương, lần đầu tiên quyền con người được thừa nhận như một giá trị phổ biến, và việc thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người được xác định là một trong các mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc.

4. Bộ luật nhân quyền quốc tế - xương sống của luật nhân quyền quốc tế

Bộ luật nhân quyền quốc tế (the International Bill of Human Rights) là thuật ngữ chỉ tập hợp ba văn kiện quốc tế cơ bản trên lĩnh vực này, đó là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) và hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) (hai công ước này cùng được Đại hội đồng Liên hợp quốc

thông qua năm 1966). Ngoài ra, theo một số tài liệu, các nghị định thư bổ sung của hai công ước cơ bản về quyền con người năm 1966 cũng là những bộ phận cấu thành của Bộ luật này.1 Ý tưởng về việc xây dựng Bộ luật nhân quyền quốc tế nảy sinh và được triển khai ngay sau khi thông qua Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945. Một Ủy ban trù bị (Preparatory Commission) của Liên hợp quốc đã được triệu tập ngay sau khi kết thúc Hội nghị Xan Phranxixcô, và đã khuyến nghị ECOSOC nhanh chóng thành lập một ủy ban về thúc đẩy quyền con người dựa trên nội dung của Điều 68 Hiến chương. Trên cơ sở khuyến nghị này, ECOSOC đã thành lập Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (the United Nations Commission on Human Rights – UN CHR) vào đầu năm 1946 (nay đã được thay thế bởi Hội đồng Quyền con người của Liên hợp quốc - the United Nations Human Rights Council – UN HRC1). Ngay trong phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng Liên hợp quốc được tiến hành vào năm 1946, Đại hội đồng đã xem xét bản dự thảo Tuyên ngôn về các quyền và tự do cơ bản (Declaration on Fundamental Human Rights and Freedoms) và chuyển dự thảo này cho ECOSOC để UNCHR xem xét “chuẩn bị cho việc xây dựng một bộ luật nhân quyền quốc tế”2. Trong phiên họp đầu tiên vào đầu năm 1947, UNCHR đã chỉ định một số chuyên gia chịu trách nhiệm xây dựng dự thảo đầu tiên của Bộ luật nhân quyền quốc tế. Sau đó, nhóm chuyên gia này được thay thế bởi một ủy ban soạn thảo chính thức3, bao gồm đại diện của tám quốc gia thành viên của UNCHR được bầu ra dựa trên sự cân bằng về khu vực địa lý. Thời kỳ đầu, ý tưởng của các quốc gia về Bộ luật nhân quyền quốc tế là rất khác nhau, bởi vậy, Ủy ban soạn thảo quyết định xây dựng hai dự thảo. Dự thảo một dưới dạng một tuyên bố trong đó xác lập những nguyên tắc và tiêu chuẩn chung về quyền con người. Dự thảo hai dưới dạng một công ước trong đó ghi nhận những quyền cụ thể và những giới hạn của các quyền đó. Cả hai dự thảo này được trình lên UNCHR. Trong phiên họp lần thứ hai của UNCHR vào tháng 12-1947, Ủy ban quyết định rằng Bộ luật nhân quyền quốc tế sẽ bao gồm ba văn kiện: một tuyên bố, một công ước (được đổi tên từ convention sang covenant) mà Ủy ban soạn thảo trình lên, cùng với một văn kiện khác về việc thực hiện các tuyên bố và công ước này. Đồng thời, UNCHR tiến hành chỉnh sửa nội dung của bản tuyên bố trong phiên họp lần thứ ba vào tháng 5-6 năm 1948 dựa trên ý kiến đóng góp của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, UNCHR đã không đủ thời gian để chỉnh sửa nội dung của hai văn kiện còn lại, vì vậy, chỉ có bản tuyên bố được trình lên ECOSOC trong phiên họp của cơ quan này tổ chức tại Pa-ri cũng trong năm 1948.1 Ngày 10-12-1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR), chỉ ba năm sau khi Liên hợp quốc được thành lập. Đây là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên tập trung đề cập vấn đề quyền con người. Bản Tuyên ngôn gồm 30 điều, lần đầu tiên xác định một tập hợp những quyền và tự do cụ thể, cơ bản của con người trên tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa. Theo Tuyên ngôn, việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, sự bình đẳng và các quyền không thể tước bỏ của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Tập hợp các quyền và tự do trong UDHR được coi là “khuôn mẫu chung” mà mọi dân tộc, quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới, cũng như để sử dụng trong việc đánh giá sự tôn trọng và thực hiện các quyền con người (Lời nói đầu). Về tính chất, mặc dù không phải là một điều ước quốc tế, song UDHR có sức nặng “luân lý” to lớn. Một số nhà nghiên cứu coi UDHR là “một điều ước mà không phải là điều ước”. Hiện tại, UDHR được xem là cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế (international customary law) về quyền con người, tức là có hiệu lực bắt buộc với mọi quốc gia trên thế giới.

Nhìn từ góc độ khác, UDHR là nỗ lực pháp lý đầu tiên của cộng đồng quốc tế trong việc giới hạn sự tự do hành động có tính chất truyền thống của các nhà nước trong quan hệ với các công dân của mình. Như đã đề cập ở các phần trên, những nỗ lực này nhằm áp đặt nghĩa vụ với các nhà nước trong việc tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do chính đáng của các cá nhân công dân theo mô hình đối xứng về quyền và nghĩa vụ (the rights-duty duality). Ngay trong ngày thông qua UDHR, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã yêu cầu UNCHR tập trung dự thảo một công ước về quyền con người và đưa ra những biện pháp thực hiện công ước. UNCHR đã sửa chữa bản dự thảo đã có sẵn trước đó trong các năm 1949-1950, dựa trên ý kiến góp ý của các quốc gia. Dự thảo này bao gồm 18 điều, chỉ tập trung vào các quyền dân sự, chính trị. Chính vì vậy, nó đã không nhận được sự ủng hộ của nhiều nước thành viên Liên hợp quốc, đặc biệt là các nước trong phe XHCN, do quá thiên lệch các quyền dân sự, chính trị mà không chú ý đúng mức đến các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá. Vào năm 1950, Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố rằng: “việc hưởng thụ các tự do dân sự và chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa là không tách rời và phụ thuộc lẫn nhau”, đồng thời, quyết định rằng, dự thảo công ước đầu tiên trên lĩnh vực này, ngoài các quyền dân sự, chính trị phải bao gồm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, cũng như phải thừa nhận một cách rõ ràng sự bình đẳng giữa nam và nữ trong các quyền có liên quan như nguyên tắc đã được nêu trong Hiến chương. B ởi vậy, vào năm 1951, UNCHR đã bổ sung vào dự thảo công ước trước đó 14 điều khoản mới về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dựa trên đề xuất của các quốc gia cũng như của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Thêm vào đó, Ủy ban còn bổ sung thêm 10 điều khoản quy định về các biện pháp thực hiện các quyền được ghi nhận trong công ước. Tuy nhiên, sau những cuộc tranh luận kéo dài mang đậm tính chất ý thức hệ chính trị giữa các nước thành viên trong các năm 1951-1952, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã yêu cầu UNCHR “soạn thảo hai công ước về quyền con người... một đề cập đến các quyền dân sự, chính trị, còn một đề cập đến các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa”. Đại hội đồng cũng đưa ra yêu cầu là hai công ước cần phải chứa đựng càng nhiều điều khoản tương tự càng tốt, và đặc biệt, đều phải có quy định “quyền tự quyết của tất cả các dân tộc”. UNCHR hoàn thành dự thảo của hai công ước trong các phiên họp lần thứ 9 và 10 năm 1953 và 1954 và trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc. Sau khi xem xét các dự thảo này trong phiên họp lần thứ 9 (năm 1954), Đại hội đồng quyết định phổ biến càng rộng càng tốt các dự thảo này để tất cả các quốc gia đều có thể nghiên cứu kỹ lưỡng và cho ý kiến. Thêm vào đó, Đại hội đồng cũng khuyến nghị Ủy ban Pháp luật của Liên hợp quốc tổ chức thảo luận về từng điều khoản của hai công ước này trong phiên họp thứ 10 (năm 1955). Cuộc thảo luận diễn ra đúng kế hoạch, tuy nhiên, phải đến năm 1966 mới kết thúc và hai công ước mới được thông qua. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (the International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR) cùng được thông qua bằng Nghị quyết 2200 A (XXI) ngày 16-12-1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Ngoài ra, Nghị định thư tùy chọn thứ nhất bổ sung ICCPR cũng được thông qua trong Nghị quyết này, trong đó quy định các thủ tục giải quyết những khiếu nại, tố cáo mà các cá nhân gửi đến cho rằng họ bị các chính phủ vi phạm các quyền dân sự, chính trị. Nghị định thư thứ hai tùy chọn thứ hai bổ sung ICCPR được thông qua theo Nghị quyết số 44/128 ngày 15-12-1989 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, đề cập việc xóa bỏ hình phạt tử hình. Gần đây, ngày 10-12-2008, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị định thư tùy chọn bổ sung ICESCR – bổ sung thêm một văn kiện nữa vào Bộ luật nhân quyền quốc tế. Bộ luật nhân quyền quốc tế có vị trí đặc biệt trong luật nhân quyền quốc tế, bởi đây là những văn kiện quốc tế đầu tiên có nội dung hoàn toàn đề cập đến quyền con người. Thêm vào đó, những văn kiện trong Bộ luật nhân quyền quốc tế cung cấp khuôn khổ các nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản mà dựa vào đó các văn kiện khác của luật nhân quyền quốc tế được xây dựng. Do vị trí và tính chất quan trọng của nó, Bộ luật này thậm chí được đánh giá như là một Hiến chương Magna Carta1 của nhân loại, đánh dấu bước tiến của loài người sang một giai đoạn hết sức quan trọng: giai đoạn giành được một cách có ý thức nhân phẩm và giá trị của con người. Sau Bộ luật nhân quyền quốc tế, nhiều điều ước và văn kiện quốc tế khác về vấn đề này đã được thông qua bởi Liên hợp quốc. Hệ thống các văn kiện này đề cập đến các quyền và tự do cơ bản (ICCPR và ICESCR) của mọi cá nhân, các quyền đặc thù của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người tị nạn, người không quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số...) và một loạt vấn đề khác có liên quan như xoá bỏ sự phân biệt đối xử về chủng tộc, xoá bỏ chế độ nô lệ và các thực trạng như nô lệ, xóa bỏ hình phạt tử hình, xoá bỏ tra tấn, xoá bỏ lao động cưỡng bức, ngăn chặn việc đưa đi mất tích...

5. Hệ thống các văn kiện của luật nhân quyền quốc tế

Liên hợp quốc là diễn đàn chính, tuy không phải là diễn đàn duy nhất mà ở đó các văn kiện của luật nhân quyền quốc tế được thông qua. Nếu xét khái niệm Liên hợp quốc nói chung (là một hệ thống bao gồm các tổ chức chuyên môn của nó như ILO, UNESCO...) thì hầu như tất cả các văn kiện của luật nhân quyền quốc tế là do các quốc gia thành viên của tổ chức này ban hành. Tuy nhiên, nếu xét tách riêng các tổ chức chuyên môn, thì một số văn kiện về quyền con người không phải do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua. Ngoài ra, một số ít các văn kiện pháp lý được thông qua ở các hội nghị do Liên hợp quốc bảo trợ, hoặc các hội nghị hòa bình quốc tế (mà cũng được xếp vào luật nhân đạo quốc tế) cũng được coi là các văn kiện của luật nhân quyền quốc tế.

Bảng dưới đây liệt kê các văn kiện quốc tế về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc và một số chủ thể khác thông qua từ năm 1945 đến nay. Danh sách này được kết hợp sắp xếp theo tính chất của các văn kiện và trình tự thời gian được thông qua.