Mục lục bài viết
1. Ai Cập cổ đại là gì?
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại phát triển tại Đông Bắc châu Phi và nằm dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Đây là một trong 4 nền văn minh hình thành tương đối tách biệt và cổ xưa nhất trên thế giới (cùng với Lưỡng Hà, Trung Hoa and Ấn Độ). Nền văn minh Ai Cập mà được các sắc nét là vào khoảng năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự hợp nhất chính trị của Thượng và Hạ dưới thời vị pharaon đầu (Narmer hay còn được gọi là Menes). Lịch sử của Ai Cập cũng đã đi qua một loạt các thời kỳ vương quốc bất ổn, và những giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được coi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ quốc thời kỳ Sơ kỳ Đồ đồng, Trung Vương quốc ở giai đoạn Tiền kỳ Này và Tân Vương quốc tương ứng với Hậu kỳ Đồ đồng. Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ một phần bắt nguồn do khả năng thích nghi của nó với những điều kiện của thung lũng sông Nile để phát triển nông nghiệp. Từ việc khả năng dự báo trước lũ lụt đến việc xây dựng thuỷ lợi tại khu vực thung lũng này đã tạo nên nguồn nông sản dồi dào, giúp cho một lượng dân số đông lên như là điều kiện tăng trưởng xã hội và văn hoá. Với việc có những nguồn lực dồi dào, nhà nước đã đầu tư cho việc tìm kiếm khoáng sản tại các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng bằng việc nhanh chóng thành lập một hệ thống chữ viết riêng, tiến hành xây dựng tập thể và nhiều dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đẩy lùi kẻ thù nước ngoài và củng cố sự cai trị của Ai Cập. Xây dựng và quản lý những hoạt động trên là một bộ máy quan lại bao gồm nhiều ký lục xuất sắc, những nhà lãnh đạo tôn giáo, cùng các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaon, người bảo đảm sự hợp tác và gắn kết của tất cả người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi. Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền miếu, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thuỷ lợi cùng kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thuỷ đầu tiên được biết đến trên thế giới.
2. Lưỡng Hà cổ đại là gì?
Lưỡng Hà là một khu vực lịch sử tại Tây Á bên trong hệ thống sông Tigris và Euphrates về phía bắc của Lưỡi liềm Mississippi. Ngày nay, Lưỡng Hà đặt tại Iraq. Theo nghĩa lớn nhất, khu vực lịch sử gồm Iraq, Kuwait cùng một phần của Iran, Syria and Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Babylon được cho là một trong những trung tâm văn hoá quan trọng trên thế giới cổ đại và các nền văn minh lâu đời nhất của khu vực là người Sumer, Akkadia, Assyria and Babylonia. Lưỡng Hà là nơi có sự phát triển lâu đời nhất của Cách mạng Đồ đá mới từ khoảng 10.000 năm đầu Công nguyên. Sự ra đời của Babylon đánh dấu sự thất bại của đế chế Babylon trong cuộc xâm lăng của người Achaemenid vào khoảng năm 539 trước Công nguyên, theo John Martin 1819. Đá đã được xác nhận là đã "gợi cảm hứng đến một vài phát triển lớn nhất trong lịch sử loài người, như việc tạo ra bánh xe, gieo trồng các cây ngũ cốc đầu tiên và sự phát triển của chữ thảo, toán học, thiên văn học, nông nghiệp và sự phát triển của đế chế đầu tiên trong lịch sử (đế quốc Akkad) mà Sargon of Akkad cai trị". Thời kỳ đã được ghi nhận là có một trong các nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới. Thời tiền sử của vùng Cận Đông cổ đại bắt nguồn từ thời kỳ đồ đá cũ. Chữ viết tồn tại dưới dạng chữ tượng hình vào thời kỳ Uruk IV (khoảng thiên niên kỷ thứ 4 TCN), và những ghi chép lịch sử xuất hiện từ giữa thiên niên kỷ thứ ba TCN với các tài liệu chữ hình nêm của một số vị vua Sơ kỳ triều đại. Lịch sử Lưỡng Hà chấm dứt với việc bị Đế chế Achaemenes xâm chiếm vào cuối thế kỷ thứ 6 TCN, hay ở thời điểm cuộc chinh phục của người Ả Rập và thiết lập Caliphate vào cuối thế kỷ thứ 7 Công Nguyên, kể từ sau chiến tranh khu vực ngày nay được coi là Iraq. Trong giai đoạn lịch sử kéo dài, Lưỡng Hà là vùng đất của một số trong các xã hội cổ phong phú và phát triển nhất thế giới.
3. Những thành tựu văn hóa chủ yếu của Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại:
3.1. Thành tựu văn hóa chủ yếu của Ai Cập cổ đại
Chữ viết Ai Cập xuất hiện khi xã hội trở thành giai cấp. Đó là chữ hán. Với những khái niệm khó và trừu tượng thì người ai cập dùng phương pháp lấy ý. Tuy nhiên, hai phương pháp trên không đầy đủ cho ghi chép mọi khái niệm của cuộc sống nên dần xuất hiện các hình vẽ biểu thị âm tiết. Lâu ngày, các chữ thể hiện âm tiết thành chữ cái. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập cổ có khoảng 1000 chữ, trong đó có 24 chữ cái. Loại chữ đã được dùng qua trên 3000 năm. Ai Cập cổ có một kho tàng văn học rất lớn và phong phú, bao gồm có thơ ca trữ tình, tục ngữ, truyện thần thoại. .. Những tác phẩm nổi bật là: "Nói Thật và Nói Láo", "Sống sót từ vụ chìm thuyền", "Lời kể của Ipuxe" hay "Trò chuyện với linh hồn của tôi". Mỗi câu chuyện còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc mang tính chất cảnh tỉnh, giáo dục, giúp con người biết ứng xử sao cho tốt đẹp, phù hợp đạo lý và khích lệ tinh thần tiến bước của con người trong xã hội. Các tác phẩm cũng thể hiện nhiều biến động lớn lao của xã hội thời cổ đại. Người Ai Cập cổ đã biết đến 12 cung hoàng đạo và biết tới những hành tinh như sao Thuỷ mang sao Kim, sao Hoả, sao Mộc hay sao Thổ. Gỗ đếm thời gian và người đã tạo nên tấm nhật khuê. Ây là một tấm gỗ đầu cong. Để biết bao nhiêu giờ hãy xem bóng mặt trời của mút có đầu nhọn vẽ ở vị trí đó trên tấm gỗ. Tuy nhiên, dụng cụ này chỉ xem được thời gian khi có ánh mặt trời. Ít lâu sau, người la mã sáng chế thêm đồng hồ nước. Đó là một chiếc bình bằng đá hình chóp tròn. Dựa trên chiếc đồng hồ nước khổng lồ này người dùng có thể xem được giờ của ngày lẫn đêm. Thành tựu lớn nhất là việc định ra lịch, căn cứ trên kết quả theo dõi tinh tú cùng quy luật dâng nước của sông Nin. Họ quan sát được buổi sáng tinh mơ khi sao Mộc bắt đầu xuất hiện cũng là lúc nước sông Nin bắt đầu dâng. Hơn nữa, khoảng cách giữa hai lần nở của sao Mộc là 365 ngày. Cũng chia khoảng thời gian đó thành một năm. Một năm được chia thành 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày và 5 ngày là dư để dành cuối năm đón tết. Năm mới của Ai Cập bắt đầu với ngày nước sông Nin bắt đầu dâng. Một năm được chia thành 3 mùa và mỗi mùa có 4 tháng. Đó là mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu. Vì yêu cầu của việc lao động và sản xuất nên người dân nơi đây đã có được nhiều hiểu biết về toán học từ thời xa xưa. Người Ai Cập cổ đại ngay từ đầu đã biết dùng phép đếm bằng 10 làm cơ sở. Các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình làm kí hiệu tuy nhiên do không có số 0 cho nên cách ghi chữ số của ai cập rất khó khăn. Nên chủ yếu mới biết phép cộng và phép trừ chứ không biết về phép nhân và chia. Đến thời Tam quốc thì mầm mống của đại số học đã bắt đầu xuất hiện. Người Ai Cập có sự hiểu biết khá đầy đủ đối với cấu tạo của cơ thể người và tục hiến xác xuất hiện từ thời lâu. Bình thường ấy, y học có cơ hội tiến bộ mạnh mẽ. Họ đã nhấn mạnh vào nguyên nhân của bệnh tật, mối quan hệ giữa tim và mạch máu trong từng dạng bệnh, khả năng chữa trị, phương pháp khám bệnh. Để biết được nguyên nhân của bệnh tật không phải là do ma quỷ hay phù thuỷ tạo ra chính là từ sự không ổn định của mạch máu. Người dân nơi đây đều biết được tầm quan trọng của óc và tim với sức khoẻ con người.
3.2. Thành tựu văn hóa chủ yếu của Lưỡng Hà cổ đại:
Đầu tiên phải kể những ngôn ngữ có chữ viết riêng như tiếng Sumer, Semit, Akkad. Phần lớn những ngôn ngữ trên lại được sử dụng vào các mục đích hành chính, tôn giáo, văn học và khoa học. Về toán học, thời xưa, người Lưỡng Hà đã biết cách làm 4 phép tính cộng trừ nhân chia và biết phân số. Để biết được diện tích các hình cần biết mối quan hệ với ba cạnh của tam giác ngay từ khi Pitago (khoảng năm 500 TCN) làm điều này. Bằng chứng là bảng đất sét 3.700 của người Babylon cổ và các phương pháp tính. Người dân Lưỡng Hà sử dụng hệ thống số đếm 60. Mặt trăng nhỏ, người Lưỡng Hà chia 1 giờ làm 60 phút và 1 phút thành 60 giây. Cũng chính dựa theo cơ số 60 nên vòng tròn được phân chia làm 360 độ. Với thiên văn học, khoa học và nông nghiệp, cư dân Lưỡng Hà căn cứ theo mặt trăng làm lịch 12 tháng dựa trên chu kỳ mặt trăng. Nó là cơ sở để loại lịch âm dương được con người sử dụng ngày nay và các bộ bản đồ cổ xưa của nhân loại (2.300 năm TCN). Bản đồ đầu tiên được vẽ trên đất sét và miêu tả vùng đất Akkadian ở Lưỡng Hà. Bản đồ được sử dụng làm bản đồ thành phố và dùng để quân sự hoặc trong thương mại. Người Lưỡng Hà cũng là nhóm cư dân duy nhất có một phương tiện vận chuyển dựa trên sức kéo động vật. Phát minh đầu tiên của người Này đối với nông nghiệp là cái lưỡi cày. Nó được làm bằng gỗ có hình dạng thô sơ (khoảng năm 6.000 TCN) . Phát minh đã hỗ trợ lớn đến sản xuất và thúc đẩy cuộc sống nông nghiệp đô thị thay vì hình thức tự cung tự cấp. Họ người Lưỡng Hà đã tạo nên những loại hạt giống mới từ lúa mì và lúa mạch. Họ cũng sáng tạo nên các khu vườn với những loại cây khác nhau như đậu, dưa chuột, tỏi, rau diếp, nho, táo và sung. Một trong các khu vườn đã được ghi nhận là kỳ quan thế giới chính là Vườn treo Babylon tại Iraq. Người Lưỡng Hà biết vắt sữa cừu, dê và bò để làm bơ, rồi giết họ để ăn thịt.