- 1. Khái quát về Nguyên tắc Paris về Thiết chế Nhân quyền Quốc gia
- 3. Thẩm quyền và Trách nhiệm của Cơ quan Nhân quyền Quốc gia
- 4. Thành phần cơ cấu đảm bảo tính độc lập và đa nguyên theo Nguyên tắc Paris
- 5. Phương thức hoạt động theo Nguyên tắc Paris
- 6. Thẩm quyền bán tư pháp của thiết chế Nhân quyền Quốc gia
- 7. Các cơ chế quốc gia bảo đảm quyền con người
1. Khái quát về Nguyên tắc Paris về Thiết chế Nhân quyền Quốc gia
Nguyên tắc Paris là bộ nguyên tắc về Thiết chế Nhân quyền Quốc gia, được thông qua tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1993.
Nguyên tắc Paris về các thiết chế nhân quyền quốc gia là một chuẩn mực ngày càng được công nhận rộng rãi trên thế giới, được tham chiếu trong các chương trình nghị sự của Liên Hợp Quốc, bao gồm trong các cơ chế nhân quyền (Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế của Hội đồng như UPR hay các Thủ tục đặc biệt, cùng với các Cơ quan giám sát các Công ước nhân quyền LHQ). Trong số các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG), mục tiêu số 16b về " tăng cường các thể chế quốc gia phù hợp" được đề xuất đánh giá bằng việc quốc gia có một cơ quan nhân quyền tuân thủ Nguyên tắc Paris.
Tính đến tháng 3/2019, trên thế giới có hơn 100 quốc gia đã có cơ quan nhân quyền quốc gia, 78 trong số này được GANHRI công nhận là tuân thủ đầy đủ Nguyên tắc Paris và được xếp vào "trạng thái A".
3. Thẩm quyền và Trách nhiệm của Cơ quan Nhân quyền Quốc gia
Nguyên tắc Paris quy định cơ quan nhân quyền quốc gia phải "được trao chức năng rộng nhất có thể" và được đảm bảo trong Hiến pháp hoặc một luật về cơ cấu cũng như lĩnh vực thẩm quyền.
Nguyên tắc Paris cũng đưa ra 7 lĩnh vực trách nhiệm chính của một cơ quan nhân quyền quốc gia:
1. Trình lên Chính phủ, Quốc hội và bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào các quan điểm, khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về bất cứ vấn đề nào liên quan đến thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. Việc trình lên này có thể xuất phát từ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, nhưng cũng có thể do Cơ quan Nhân quyền quốc gia chủ động đề xuất trong thẩm quyền được công nhận trước.
Nguyên tắc Paris gợi ý 4 lĩnh vực của các đề xuất kể trên: i) bất cứ điều khoản lập pháp hay hành pháp nào, cũng như các điều khoản liên quan tới tư pháp, với mục đích duy trì và mở rộng việc bảo vệ nhân quyền (bao gồm các quy định hiện hành cũng như các dự luật và đề xuất). Cơ quan nhân quyền quốc gia sẽ đưa ra khuyến nghị mà nó cho là hợp lý để đảm bảo cho những điều khoản trên tuân theo những nguyên tắc cơ bản của nhân quyền; nếu cần thiết thì cơ quan quốc gia sẽ đề xuất đưa ra luật mới, chỉnh sửa luật hiện hành và áp dụng hay điều chỉnh các biện pháp hành pháp; ii). Bất cứ trường hợp vi phạm nhân quyền nào mà nó quyết định tiếp nhận; iii). Chuẩn bị báo cáo về tình hình quốc gia liên quan đến nhân quyền nói chung và những vấn đề cụ thể hơn; iv) Lưu ý Chính phủ về tình trạng nhân quyền bị vi phạm ở bất cứ khu vực nào trong nước và đề xuất các biện pháp chấm dứt tình trạng đó, khi cần thiết có thể bày tỏ ý kiến về quan điểm và phản ứng của Chính phủ;
Cơ quan Nhân quyền quốc gia có thể lựa chọn công khai những đề xuất hoặc đệ trình này.
2. Thúc đẩy và đảm bảo sự hài hòa giữa pháp luật, quy định và thực tiễn thi hành của quốc gia với các văn kiện nhân quyền quốc tế mà quốc gia đó là thành viên, và việc thực thi có hiệu quả những văn kiện này.
3. Khuyến khích phê chuẩn hoặc tham gia các văn kiện nhân quyền quốc tế và bảo đảm việc áp dụng chúng;
4. Đóng góp vào các báo cáo mà Quốc gia được yêu cầu nộp cho các cơ quan và ủy ban của Liên Hợp Quốc, cũng như đóng góp vào các cơ quan khu vực theo nghĩa vụ ghi trong các điều ước, khi cần thiết có thể đưa ra ý kiến về vấn đề này, trên cơ sở tôn trọng thích đáng sự độc lập của các cơ quan đó;
5. Hợp tác với Liên Hợp Quốc hay bất cứ tổ chức nào khác trong hệ thống Liên Hợp Quốc, với các cơ quan khu vực và cơ quan quốc gia của các quốc gia khác có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền;
6. Trợ giúp xây dựng các chương trình đào tạo và nghiên cứu nhân quyền, tham gia vào việc thực hiện các chương trình đó ở trường phổ thông, đại học, hay các cơ quan chuyên môn khác;
7. Phổ cập nhân quyền và những nỗ lực chống mọi hình thức phân biệt đối xử, nhất là phân biệt chủng tộc, bằng cách nâng cao nhận thức công chúng, đặc biệt là thông qua thông tin, giáo dục và qua các cơ quan ngôn luận.
4. Thành phần cơ cấu đảm bảo tính độc lập và đa nguyên theo Nguyên tắc Paris
Mặc dù đề cao tính độc lập và đa nguyên của Cơ quan Nhân quyền Quốc gia, Nguyên tắc Paris không định nghĩa trực tiếp thế nào là "độc lập" và "đa nguyên". Nguyên tắc này chỉ đưa ra tiêu chí mang tính vận hành là sự thể hiện tính độc lập và đa nguyên trong thành phần cơ cấu của Cơ quan Nhân quyền Quốc gia và trong phương thức hoạt động.
Nguyên tắc Paris gợi ý Cơ quan Nhân quyền Quốc gia nên bao gồm các thành phần đa dạng đến từ: a. Các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực nhân quyền và nỗ lực chống phân biệt chủng tộc, các tổ chức nghiệp đoàn, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp liên quan, ví dụ như các hiệp hội luật sư, bác sĩ, phóng viên và các nhà khoa học tên tuổi; b. Các xu thế tư tưởng triết học hay tôn giáo; c. Các trường đại học và các chuyên gia có trình độ;d. Quốc hội; và e. Các cơ quan của Chính phủ (chỉ tham gia với tư cách tư vấn). Đây có thể là các thành phần cố định (được bổ nhiệm), hoặc cơ hữu (mang tính tư vấn), hoặc mang tính hợp tác.
Trong đánh giá tuân thủ Nguyên tắc Paris, GANHRI đặc biệt quan tâm đến các thủ tục lựa chọn và bổ nhiệm thành viên cũng như nhân sự của cơ quan nhân quyền quốc gia.
GANHRI nhận xét rằng có nhiều cách diễn giải tính đa nguyên trong cơ cấu của cơ quan nhân quyền quốc gia, nó có thể thể hiện ở thành phần của các đại diện được bổ nhiệm, và ở trong chính thành phần nhân sự nhân viên của cơ quan nhân quyền quốc gia. Khi đánh giá một cơ quan nhân quyền quốc gia đáp ứng tiêu chí đa nguyên như thế nào, GANHRI đánh giá các khía cạnh công khai, có tính giải trình và tính tham gia trong việc lựa chọn và bổ nhiệm thành viên của cơ quan nhân quyền quốc gia: - Vị trí cần bổ nhiệm được thông báo công khai và rộng rãi; - Tối đa hóa số lượng ứng cử viên từ nhiều nhóm xã hội; - Khuyến khích tham vấn và tham gia trong việc ứng cử, đề cử, tuyển lựa, chọn và bổ nhiệm; - đánh giá ứng viên trên các tiêu chí được định trước, khách quan và công khai; và - Lựa chọn thành viên sẽ phục vụ cơ quan nhân quyền quốc gia trên tư cách cá nhân hơn là đại diện cho tổ chức của họ. GANHRI đánh giá tiến trình tuyển lựa thành viên của cơ quan nhân quyền quốc gia có được quy định rõ ràng trong luật pháp không, nếu thành viên được chọn từ nhiều cơ quan khác nhau (ví dụ, ở một số nước, chính phủ, quốc hội, cơ quan tư pháp và xã hội dân sự có thể đề cử một số lượng thành phần ứng viên nhất định) thì tiến trình này ở các nhánh khác nhau phải đồng nhất.
Để đảm bảo tính độc lập, trong thành phần cơ cấu, GANHRI yêu cầu các đại diện mang tính chính trị (thành viên chính đảng hay liên minh đảng chính trị cầm quyền, chính phủ, quốc hội) không trực tiếp tham gia cơ quan nhân quyền quốc gia hoặc nếu có thì chỉ tham gia với tư cách cố vấn mà không tham gia vào quá trình ra quyết định của cơ quan này, bao gồm cả việc quyết định chiến lược và kế hoạch.
5. Phương thức hoạt động theo Nguyên tắc Paris
Nguyên tắc Paris đề xuất 7 phương thức hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia như sau:
(a) Tự do xem xét bất cứ vấn đề nào trong phạm vi thẩm quyền của mình mà không chuyển tới cơ quan có thẩm quyền cao hơn. Vấn đề này có thể cho cơ quan tự lựa chọn hoặc do một đề xuất từ chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền, hoặc xuất phát từ khiếu nại cá nhân hoặc yêu cầu của một tổ chức.
(b) Nghe bất cứ ai và tiếp cận bất cứ thông tin và tài liệu nào cần thiết để đánh giá tình huống trong thẩm quyền của nó;
(c)Trả lời các ý kiến của công chúng một cách trực tiếp hoặc thông qua truyền thông, đặc biệt trong trường hợp công khai các quan điểm và khuyến nghị.
(d) Họp thường xuyên và bất cứ khi nào cần thiết với sự có mặt của tất cả các thành viên sau khi họ đã được thông báo kịp thời;
(e)Thành lập các nhóm công tác gồm các thành viên khi cần thiết, và thiết lập các tiểu ban vùng và khu vực để hỗ trợ cơ quan quốc gia thực hiện chức năng của nó;
(f) Duy trì tham vấn với các cơ quan khác chịu trách nhiệm thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, như cơ quan xét xử hay cơ quan khác (đặc biệt là thanh tra viên, hòa giải và những cơ quan tương tự);
(g) Phát triển mối quan hệ với các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, phát triển kinh tế và xã hội, chống lại phân biệt chủng tộc, bảo vệ những nhóm người dễ bị tổn thương (đặc biệt là trẻ em, người lao động di cư, người tỵ nạn, người bị khuyết tật về thể chất và tinh thần) hoặc những lĩnh vực đặc biệt khác.
6. Thẩm quyền bán tư pháp của thiết chế Nhân quyền Quốc gia
Nguyên tắc Paris đưa ra 4 phương thức thực hiện thẩm quyền bán tư pháp của cơ quan nhân quyền quốc gia:
(a) Tìm kiếm giải pháp hòa giải thông qua thương lượng. Theo luật định, cơ quan này có thể có quyết định mang tính ràng buộc, hoặc khi cần thiết, theo nguyên tắc bí mật;
(b) Thông báo cho nguyên đơn về các quyền của họ, đặc biệt là về các phương thức giải quyết mà họ có thể dùng đến, hỗ trợ họ tiếp cận các phương thức đó;
(c) Giải quyết bất kỳ đơn thư khiếu nại hay kiến nghị hoặc chuyển chúng tới cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi luật định;
(d) Đưa ra kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là thông qua đề xuất sửa đổi, cải cách luật pháp, các quy định hay thông lệ hành chính, đặc biệt là nếu chúng gây khó khăn cho những người khiếu kiện trong việc bảo đảm các quyền của họ.
7. Các cơ chế quốc gia bảo đảm quyền con người
Các chuẩn mực nhân quyền quốc tế chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được tôn trọng, bảo đảm và thực thi trong thực tiễn ở cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, xét đến cùng, việc bảo đảm QCN ở cấp độ quốc gia đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trên thế giới hiện nay, ở cấp độ quốc gia có nhiều loại hình cơ quan nhân quyền và cơ chế quốc gia được thành lập và hoạt động theo Nguyên tắc Paris. Tuy nhiên điển hình đó là 3 cơ chế: (1) UBNQ quốc gia; (2) Thanh tra Quốc hội về nhân quyền và Cao Ủy Nhân quyền; (3) CQNQQG khác (như viện/trung tâm/hội/hội đồng,…nhân quyền quốc gia).
UBNQ quốc gia (National Commission of Human Rights)
Đây là một cơ chế phổ biến trên thế giới hiện nay, với khoảng gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có hình thức Ủy ban quốc gia chuyên trách về bảo vệ và thúc đẩy QCN này. Có nhiều tên gọi khác nhau, như UBNQ quốc gia; UBNQ và Cơ hội bình đẳng; UBNQ và Bình đẳng,…. Khu vực Đông Nam Á hiện nay đã có 6 UBNQ quốc gia được thành lập và hoạt động theo Nguyên tắc Paris, đó là UBNQ Thái Lan, UBNQ Phi-lip-pin, UBNQ In-đô-nê-xia, UBNQ Ma-lai-xia, UBNQ Đông Timor, UBNQ Mi-an-ma.
Các Ủy ban Quốc gia này hầu hết được thành lập theo một đạo luật của Nghị viện (Quốc hội), có quy chế độc lập với các nhánh quyền lực của Nhà nước và là sự đại diện đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong xã hội (các nhà lập pháp, luật sư, hoạt động xã hội,…)
Chức năng của các UBNQ quốc gia này bao gồm tiếp nhận, xem xét, giải quyết các khiếu kiện, tố cáo về những vụ việc vi phạm QCN; giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật về QCN; tư vấn pháp luật và chính sách về các vấn đề liên quan đến nhân quyền; tham gia làm báo cáo quốc gia về việc thực hiện nghĩa vụ nhân quyền quốc tế (của quốc gia thành viên công ước nhân quyền); điều tra, phát hiện và đề xuất phương án xử lý hoặc thực hiện thẩm quyền tương tự xét xử (quasi-judicial) để giải quyết tình trạng vi phạm nhân quyền….
Thanh tra Quốc hội (Parliamentary Ombudsman) và Cao Ủy Nhân quyền
Cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) có nguồn gốc từ các quốc gia Bắc Âu, đặc biệt là xuất hiện đầu tiên tại Nghị viện Thụy Điển vào năm 1809. Nghĩa gốc của từ Ombudsman xuất phát từ tiếng Old Norse (người Bắc Âu) có nghĩa là “đại diện” (umboðsmaðr) (hay “representive” trong tiếng Anh), là một quan chức do Chính phủ hay Nghị viện bổ nhiệm có chức năng đại diện cho quyền và lợi ích của công chúng thông qua việc điều tra và giải quyết các khiếu kiện cá nhân do công dân đệ trình. Cơ quan này hiện nay có ở hơn 60 quốc gia trên toàn thế giới. Điều đáng ngạc nhiên là mô hình này được ưa chuộng ở rất nhiều quốc gia từng là thuộc địa của khối thịnh vượng chung (Common Wealth) của Anh cũng như nhiều quốc gia khác. Đồng thời là một cơ quan song trùng với CQNQQG. Chẳng hạn ở Anh, Canada, Thái Lan, ,…vừa có cả cơ quan Thanh tra Quốc hội và vừa có UBNQ quốc gia.
Cao Ủy Nhân quyền thuộc Nghị viện
Đây là mô hình CQNQGQ độc lập có ở một số quốc gia thuộc Nghị viện được thành lập dựa trên một điều luật của Hiến pháp nhưng có những đặc thù không giống như một CQNQQG. Chẳng hạn, mô hình này hiện diện trong chính thể của nước Cộng hòa Ukraina, với tên gọi Cao uỷ Nhân quyền của Nghị viện Ukraina (Ukrainian Parliamentary Commissioner for Human rights), là cơ quan được thành lập theo Điều 55 của Hiến pháp. Chức năng của cơ quan này là nhận và giải quyết các khiếu kiện về các vấn đề liên quan đến nhân quyền thông qua các cơ chế giải quyết của một cơ quan Nghị viện và thẩm quyền tương tự phán xét (quasi-judicial).
Các CQNQQG khác
Các CQNQQG khác bao gồm các viện nghiên cứu quốc gia hay hội, hiệp hội, hội đồng quốc gia về nhân quyền được thành lập và hoạt động dựa trên Nguyên tắc Paris. Trên thế giới mô hình này khá phổ biến ở nhiều nước Bắc Âu và Tây Âu, như Viện Nhân quyền Đan Mạch, Trung tâm Nhân quyền Na Uy, Viện Nhân quyền Cộng hòa Liên bang Đức,…Việc lựa chọn mô hình này thường phù hợp với các quốc gia phát triển (nơi có trình độ phát triển kinh tế-xã hội cao và đặc biệt là trình độ nhận thức, văn hóa pháp luật và ý thức cao về QCN của người dân và đội ngũ công chức) hay nơi có những đặc thù nhất định về thể chế chính trị và văn hóa (như Hội Nghiên cứu nhân quyền quốc gia Trung Quốc). Ngoại trừ trường hợp Trung Quốc, điểm lưu ý đó là bước tiến về dân chủ và QCN của các quốc gia lựa chọn mô hình các viện hay trung tâm quốc gia đạt trình độ tương đối cao.
Bài viết tham khảo:
1. Nguyên tắc paris và các cơ chế bảo đảm nhân quyền quốc gia trên thế giới; TS. HOÀNG VĂN NGHĨA; Viện Nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Tạp chí nghiên cứu lập pháp)
2. Các nguyên tắc Paris về cơ quan nhân quyền quốc gia; PGS.TS VŨ CÔNG GIAO - NGUYỄN XUÂN SANG (Báo Thế giới & Việt Nam)