1. Yếu tố chính trị ảnh hưởng đến trưng cầu dân ý như thế nào?

Trong một xã hội có giai cấp, chính trị với những thiết chế được đặt ra là để xác lập mối quan hệ giữa các giai cấp trong đó xác định đâu là giai cấp thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Từ việc xác lập quan hệ này kiến tạo nên vị thế của Đảng chính trị, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.

Các Đảng chính trị thiết lập ra Nhà nước, một thiết chế quyền lực đặc biệt, công cụ của giai cấp thống trị thiết lập nên nhằm cai trị và đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị, trấn áp các giai cấp khác, quản lý toàn bộ hoạt động đời sống xã hội và con người. Để duy trì quyền lực và quản lý hiệu quả, Nhà nước phải lập nên các công cụ, cơ quan, tổ chức bộ máy để hỗ trợ, thực thi vai trò, nhiệm vụ của mình. Một trong số các công cụ hiệu quả nhất chính là hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, xét về mặt bản chất, pháp luật là do Nhà nước xây dựng nên, mà Nhà nước do Đảng chính trị thiết lập nên hệ thống pháp luật chắc chắn phải phản ánh đầy đủ ý chí, quan điểm của Đảng cầm quyền.

Trong mỗi thời kỳ khác nhau, tùy thuộc vào hệ tư tưởng của Đảng chính trị đang nắm giữ quyền lực sẽ thấy các chính sách, đường lối, quan điểm có sự thay đổi, khác biệt rất lớn. Các quy định pháp luật trong những thời điểm đó cũng thể hiện rõ nét việc cụ thể hóa, chi tiết hóa những quyết sách này. Thực tế tại một số quốc gia đã chứng minh, nếu đảng chính trị cầm quyền có xu hướng cởi mở, ủng hộ dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội thì quốc gia đó sẽ hướng tới việc ban hành các chế định pháp luật liên quan đến nội dung này. Ngược lại, nếu Đảng chính trị tại đó duy trì quan điểm bảo thủ, tập trung quyền lực thì vấn đề dân chủ, công khai, minh bạch, huy động sự tham gia của phần lớn nhân dân vào quản lý đất nước và xã hội sẽ không bao giờ được đặt ra.

2. Trưng cầu dân ý và yếu tố kinh tế

Thông thường một nền kinh tế có trình độ phát triển như thế nào thì sẽ tương ứng với một thể chế chính trị có mức độ phát triển ngang bằng như vậy. Nếu kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi của tư tưởng chính trị và thể chế chính trị vì “cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”.

Đối với dân chủ trực tiếp nói chung và chế định trưng cầu ý dân cụ thể, chúng ta nhận thấy, yếu tố kinh tế có mối liên hệ khá mật thiết và sự ảnh hưởng không nhỏ, thể hiện cụ thể ở một số vấn đề.

Thứ nhất, điều kiện kinh tế của quốc gia là một trong những yếu tố quan trọng trong việc soạn thảo và xây dựng các quy phạm pháp luật của chế định trưng cầu ý dân. Quá trình soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp, thẩm định, đánh giá tác động, tổ chức hội thảo, phát phiếu thăm dò, lấy số liệu, tổng hợp nhận xét, tham vấn chuyên gia, dịch thuật tài liệu đến hoàn thiện dự thảo, thông qua dự án luật tất cả đòi hỏi nguồn kinh phí đầu tư rất lớn, ổn định và lâu dài.

Thứ hai, yếu tố kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng bảo đảm cho việc triển khai thực thi chế định pháp luật về trưng cầu ý dân trong thực tiễn. Việc này đòi hỏi nguồn kinh phí không nhỏ cả về mặt vật chất và thời gian, công sức, nguồn nhân lực. Do vậy, nội dung, phương thức và điều kiện thực thi dân chủ nói chung, chế định trưng cầu ý dân cụ thể luôn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định.

Thứ ba, lợi ích về kinh tế sẽ đảm bảo sức mạnh cho quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền vì mục đích tự thân của đấu tranh chính trị. Đây thực chất là phương thức, là con đường, phương tiện để đạt lợi ích kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế. Ngược lại khi giai cấp cầm quyền tạo lập thể chế chính trị - xã hội ổn định, đưa ra các quyết sách chính trị hợp lý sẽ tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển. Khi quốc gia coi trọng và phát huy dân chủ, tạo điều kiện, thiết lập hệ thống các quy định pháp luật và đưa ra nhiều cách thức để người dân có thể thực thi quyền lực của chính mình, tham gia quản lý nhà nước, xã hội, quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh nhằm mục tiêu chung nhất là tạo nên sự đồng thuận trong xã hội sẽ là nền tảng vững chắc cho việc huy động sức dân vào công cuộc kiến tạo và phát triển kinh tế đất nước.

3. Trưng cầu dân ý và yếu tố pháp luật

Trong số các thuộc tính của pháp luật có thuộc tính giai cấp thể hiện ở việc “pháp luật phản ánh ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước”. Nói cách khác, pháp luật được xem là sản phẩm của việc cụ thể hóa, chi tiết hóa các ý chí, chủ trương, quan điểm của giai cấp thống trị vào hoạt động của Nhà nước và xã hội. Giai cấp thống trị xem pháp luật là công cụ hiệu quả giúp Nhà nước quản lý toàn bộ các quan hệ của đời sống xã hội và hoạt động của người dân. Tương ứng với kiểu Nhà nước nào do giai cấp nào thiết lập nên thì sẽ có hình thức pháp luật như vậy, đúng như Karl Maxc đã khẳng định về pháp luật tư sản của nhà nước tư sản: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được để lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”.

Việt Nam đang trong giai đoạn cải cách kinh tế, đổi mới toàn diện, hướng đến mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Quá trình triển khai thực hiện mục tiêu trên có ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội nói chung, công cuộc cải cách tư pháp và hoạt động xây dựng pháp luật nói riêng, trong đó có liên quan mật thiết đến việc hoàn thiện các chế định về thực thi dân chủ trực tiếp, như trưng cầu ý dân cụ thể trong số các nội hàm cơ bản của nhà nước pháp quyền, nổi bật lên là tính chính đáng, tính hợp pháp của quyền lực, chủ quyền nhân dân.

4. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến trưng cầu dân ý

Các yếu tố như tôn giáo, văn hóa cũng có những ảnh hưởng, tác động nhất định đến hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và chế định trưng cầu ý dân nói riêng. Theo Ph.Ăngghen, tôn giáo được xem là một “hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội”, “hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh cái tồn tại xã hội đã sinh ra nó”. Trong giai đoạn Nhà nước mới hình thành chưa có sự xuất hiện của pháp luật, giai cấp thống trị chủ yếu quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người thông qua các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán của cộng đồng, hệ thống giáo lý, tín điều của tôn giáo. Theo tiến trình lịch sử, cùng với sự phát triển của xã hội loại người, những nội dung này có ảnh hưởng rất lớn, lâu dài, mang tính bền vững ngay cả khi hệ thống pháp luật xuất hiện. Chính vì vậy, quá trình xây dựng và ban hành pháp luật cần phải có sự tham khảo và học hỏi từ tôn giáo, phong tục, tập quán, quy phạm đạo đức đi trước. Đây được xem là nguồn bổ sung không tách rời của hệ thống pháp luật. Có những quan hệ xã hội hiện nay, việc áp dụng pháp luật chưa phải là cách thức giải quyết hiệu quả nhất nếu so sánh với việc sử dụng chuẩn mực đạo đức, tín điều tôn giáo để xử lý. Như vậy, giữa hai chủ thể này có mối quan hệ tác động qua lại, gắn bó và hỗ trợ lẫn nhau: tôn giáo giúp pháp luật hoàn thiện và ngược lại pháp luật giúp củng cố, duy trì và phát triển tôn giáo.

5. Trưng cầu dân ý tại New Zealand

New Zealand là quốc gia có truyền thống lâu đời về việc thực hành dân chủ trực tiếp. Vào năm 1993, Đạo luật về trưng cầu dân ý theo sáng kiến công dân của New Zeland được ban hành. Bất kỳ công dân hay nhóm nào muốn nêu sáng kiến có thể trình câu hỏi để đề xuất lên Ban thư ký của Hạ viện. Sau đó, câu hỏi này sẽ được thông báo cho mọi người để cùng nhận xét về nội dung và hình thức của nó. Trong vòng ba tháng kể từ khi trình câu hỏi, Ban thư ký Quốc hội sẽ xây dựng dự thảo. Người đề xuất có 12 tháng để thu thập chữ ký ủng hộ. Để đề xuất đủ điều kiện xuất hiện trên lá phiếu, cần phải có chữ ký ủng hộ của ít nhất 10% cử tri đã đăng ký. Sau khi nhận được số chữ ký theo yêu cầu, Ban thư ký Quốc hội tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên các chữ ký để xác định tính hợp pháp của chúng. Khi các yêu cầu đã được đáp ứng, câu hỏi được gửi đến Quốc hội, và Quốc hội sẽ quyết định tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân. Cho đến nay đã có ba cuộc bỏ phiếu được tổ chức. Các kết quả của cuộc bỏ phiếu không mang tính ràng buộc. Quốc hội sẽ quyết định liệu có muốn thực hiện đề xuất hay không, không phụ thuộc vào số phiếu thu được trong cuộc trưng cầu ý dân.

Đặc điểm không mang tính bắt buộc của quá trình trưng cầu dân ý ở New Zealand đã bị chỉ trích nhiều. Khó khăn trong việc xác định một đề xuất sáng kiến hội đủ điều kiện trên lá phiếu và sự không chắc chắn trong hành động của Quốc hội đã làm giảm đi sự nhiệt tình của công chúng, và ngày càng ít đề xuất nộp cho Ban thư ký Hạ viện trong những năm gần đây. Tuy nhiên, Luật sáng kiến công dân của New Zealand vẫn còn là một thử nghiệm và sẽ được hoàn thiện trong tương lai dựa trên kinh nghiệm của luật hiện hành. Các cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức đã góp phần thay đổi hệ thống bầu cử của New Zealand chuyển từ đại diện đa số thành viên đơn lẻ kiểu Anh sang một hệ thống tỷ lệ thành viên hỗn hợp.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)