Mục lục bài viết
1. Khái quát về lịch sử phát triển của luật so sánh
Khái quát về lịch sử phát triển của luật so sánh trên thế giới.
1.1 Trước thế kỉ 19
- Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà nước đã viện dẫn pháp luật nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật của mình, điển hình là Hy Lạp và La Mã
- Hy Lạp:
+ Nhiều thành phố đã chấp nhận toàn bộ hoặc 1 phần luật lệ của các thành ban khác
+ Ngoài ra, cũng có các nghiên cứ so sánh: Aristotle đã nghiên cứu so sánh 153 tổ chức của người Hi Lạp và các thành bang; Plota đã so sánh luật lệ các thành bang vs nhau
- La Mã:
+ Khi mới được hình thành, luật lệ của La mã được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu luật lệ của Hy Lạp.
Ví dụ: Bộ luật 12 bảng của người La Mã cổ đại
+ Qua các thời kì hưng thịnh của đế chế La mã, Trung cổ, luật so sánh đều không phát triển
- Đến TK 16, ở 1 số quốc gia châu Âu lục địa mới xuất hiện 1 số công trình nghiên cứu: so sánh giữa luật La Mã vs luật của người Giécmanh
- TK 17-18 hầu như không phát triển. Có nổi bật là Montesquieu sử dụng phương pháp so sánh rất nhiều trong “Tinh thần pháp luật” và “Những bức thư Ba Tư” → sau này được coi là ng đi tiên phong trong lĩnh vực luật so sánh
- Với việc so sánh luật tập quán ở Châu Âu lục đã đã hình thành nên thường luật tập quán (Droit Commun Coutumier) ở Pháp.
1.2 Từ thế kỷ 19 đến nay
- Luật so sánh phát triển mạnh mẽ với 2 hình thức:
+ Luật so sánh lập pháp: quá trình theo đó pháp luật của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp luật quốc gia
+ Luật so sánh học thuật: so sánh các hệ thống pháp luật hệ thống pháp luật khác nhau để nâng cao hiểu biết về pháp luật
- Đức là 1 quốc gia rất phát triển luật so sánh lập pháp, họ xây dựng các văn bản pháp luật dựa trên việc so sanh vs luật của Pháp, Hà Lan và các nước châu Âu,...
- Luật so sánh lập pháp phát triển sớm hơn luật so sánh học thuật. Đến giữa thế kỷ 19 luật so sánh mới dường như được thừa nhập như ngành nghiên cứu pháp luật.
- Cuối Thế kỷ 19, luật so sánh sự phát triển được đánh dấu bằng các thiết chế như hiệp hội, các tạp chí, trưởng các chuyên ngành so sánh
Cơ sở thúc đẩy sự ra đời của luật so sánh:
- Cuối thế kỷ 19, kinh tế và giao thương phát triển
- Đòi hỏi sự hiểu biết pháp luật nước ngoài trong giao thương
- Sự lớn mạnh của các tập đoàn kinh tế, đòi hỏi hài hòa pháp luật trong một số lĩnh vực (sở hữu trí tuệ, vận tải hàng hóa)
Sự hình thành và phát triển của luật học so sánh ở Việt Nam.
- Trước 1986, Luật so sánh VN hầu hết là luật so sánh lập pháp
- Thời kì phong kiến, các nhà làm luật Việt hầu hết học hỏi từ pháp luật Trung Quốc cả về tư tưởng, hình thức, nội dung
- Sau Cách mạng tháng 8, pháp luật hầu hết được xây dựng từ các nước XHCN, ví dụ như HP 1959 đã được chủ tịch HCM chỉ đạo về việc tham khảo HP các nước bạn, nên nó được coi như sp của so sánh pháp luật.
- Từ 1954 - 1975, các nhà làm luật miền Nam đã tham khảo pháp luật nước ngoài để xây dựng luật, ví dụ luật tư như HNGĐ, thương mại, dân sự...
- Luật so sánh học thuật có 1 số nghiên cứu, các tác giả như Ngô Bá Thành, Vũ Văn Mẫu
- Sau 1975, hoạt động xây dựng pháp luật phát triển, vẫn tiếp tục học tập các nước XHCN (đặc biệt là Liên Xô)
- Từ 1986 đến nay: Luật so sánh phát triển cả 2 linh vực lập pháp và học thuật
+ Luật so sánh lập pháp: học hỏi các nước đã phát triển nền kinh tế thị trường
+ Luật so sánh học thuật: xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu hơn; các tổ chức chuyên về luật so sánh cũng được thành lập
2. Khái niệm và đối tượng của Luật so sánh
Luật so sánh là một ngành khoa học. Xung quanh định nghĩa về luật so sánh dưới góc đọ là một môn khoa học thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau
Theo Zweigert và Kortz, luật so sánh là hoạt động trí tuệ mà pháp luật là đối tượng và so sánh là quá trình hoạt động
Theo Peter de Cruz, luật so sánh nghiên cứu có hệ thống các truyền thống pháp luật và quy phạm pháp luật, dựa trên cơ sở so sánh. Vậy luật so sánh có đối tượng nghiên cứu là pháp luật nước ngoài và phương pháp nghiên cứu chủ yếu là so sánh.
- Theo quan điểm của PGS.TS Ngô Huy Cương: Luật so sánhlà một môn khoa học pháp lý sử dụng tổng quát các phương pháp so sánh làm trọng yếu để nghiên cứu các vấn đề pháp luật thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước một cách riêng biệt và nghiên cứu việc sử dụng, cũng như hiệu quả của phương pháp so sánh pháp luật.
=> Luật so sánh hay Luật học so sánh là một môn khoa học, một phương pháp tiếp cận nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt, giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật. Luật học so sánh còn là lý luận, hay là môn khoa học trong các ngành khoa học pháp lý nhằm nghiên cứu và so sánh các văn bản pháp luật và hệ thống pháp luật khác nhau với nhau và với các quy phạm của luật quốc tế để làm sáng rõ sự giống nhau và khác nhau, xác định khuynh hướng phát triển chung của pháp luật.
3. Phân biệt và chỉ ra mối liên hệ giữa so sánh vĩ mô và so sánh vi mô.
- So sánh vĩ mô: so sánh các hệ thống pháp luật về tinh thần, phong cách, phương pháp tư duy pháp lý, thủ tục,trình tự
Cụ thể, phương pháp xử lý các tư liệu pháp lý, thủ tục giải quyết các tranh chấp như: kỹ thuật lập pháp, kiểu pháp điển hóa, giải thích pháp luật, xem xét tiền lệ, việc đóng góp của nhà trường vào việc phát triển pháp luật, quan điểm tư pháp, các thức khác nhau trong việc giải quyết xung đột, vai trò của luật sư và thẩm phán trong việc chứng minh sự kiện và thiết lập pháp luật.
- So sánh vi mô: so sánh các vấn đề pháp lý cụ thể và các giải pháp giải quyết chúng
- Bình luận: 2 mức độ so sánh này không có ranh giới rõ ràng, thực tế khi so sánh người ta phải thực hiện đồng thời cả 2 mức độ nghiên cứu; bản thân 2 mức độ này cũng được xem là phương pháp quan trọng của luật so sánh.
4. Mục tiêu nghề nghiệp, văn hóa, khoa học và cải cách của luật so sánh.
- Mục tiêu nghề nghiệp: định hướng cho những người theo nghề luật (có cần luật so sánh ko)
+ Thẩm phán: công nhận những phán quyết của tòa án, trọng tài nước ngoài thì cần biết để xem xét sự xung đột
+ Nhà làm luật: tham khảo luật nước ngoài để xây dựng pháp luật quốc gia
- Mục tiêu văn hóa: mở rộng hiểu biết về 1 nền luật học khác
- Mục tiêu khoa học:
+ Cung cấp tri thức pháp luật: có cái nhìn toàn diện về các dòng họ pháp luật trên thế giới; phân nhóm các hệ thống pháp luật; cung cấp kiến thức cụ thể về hệ thống pháp luật nước ngoài
+ Hiểu hơn về pháp luật nước mình, bổ sung nâng cao kiến thức sẵn có. Đưa ra hướng tiếp cận pháp luật mới.
+ Cung cấp tri thức nhiều lĩnh vực khác: để tiến hành so sánh, đánh giá cần tìm hiểu nhiều lĩnh vực khác như lịch sử, địa lí, ngôn gnữ, kinh tế, chính trị,... (những nguyên nhân dẫn tới sự giống và khác)
- Mục tiêu cải cách pháp luật quốc gia:
+ Để có thể áp dụng những sáng tạo vào luật thì các nhà làm luật phải dự báo được khả năng tác động của đạo luật ấy tới đời sống xã hội trước khi thử nghiệm. So sánh những sáng tạo này ở các quốc gia khác là 1 phương pháp dự báo hiệu quả. Hoặc vay mượn miễn phí các giải pháp pháp luật sẽ hữu ích hơn việc trải qua những thử nghiệm.
+ Việc học hỏi được thể hiện qua 2 hình thức:
Dựa vào khái niệm và giải pháp của nước ngoài để xây dựng giải pháp phù hợp với hoàn cảnh của quốc gia.
Cấy ghép: Tiếp nhận các khái niệm và giải pháp của nước ngoài
- Luật so sánhmở rộng nguồn các giải pháp pháp luật về vấn đề cụ thể mà pháp luật của các nước đã và đang phải đối mặt
- Tăng khả năng thành công của việc cải cách hệ thống pháp luật thế giới.