Mục lục bài viết

1. Tổng quan về ly hôn đơn phương

1.1. Ly hôn đơn phương là gì?

Theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ly hôn đơn phương (còn gọi là ly hôn theo yêu cầu của một bên) là việc một trong hai vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn khi hòa giải tại Tòa án không thành công, và Tòa án xét thấy có căn cứ để cho ly hôn. Các căn cứ này bao gồm:

  • Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình;
  • Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng;
  • Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Ngoài ra, Tòa án cũng sẽ giải quyết cho ly hôn trong trường hợp:

  • Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn.
  • Có yêu cầu ly hôn khi chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

1.2. Đặc điểm nhận diện ly hôn đơn phương so với ly hôn thuận tình

Ly hôn trong pháp luật Việt Nam được chia thành hai hình thức chính là ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình. Sự khác biệt giữa hai hình thức ly hôn này như sau:

Tiêu chí Đơn phương ly hôn Thuận tình ly hôn
Định nghĩa  Ly hôn đơn phương là việc một trong hai bên vợ, chồng yêu cầu Tòa án giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân khi hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được Ly hôn thuận tình là hình thức chấm dứt quan hệ hôn nhân khi cả hai vợ chồng tự nguyện đồng ý ly hôn và đã thống nhất hoàn toàn về mọi vấn đề bao gồm quyền nuôi con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng, chia tài sản chung, giải quyết nợ chung
Căn cứ pháp lý Điều 56 Luât Hôn nhân và Gia đình Điều 55 Luât Hôn nhân và Gia đình
Bản chất Vụ án dân sự (có tranh chấp) Vụ việc dân sự (không có tranh chấp)
Sự đồng thuận của hai bên Bên kia không đồng ý ly hôn hoặc không đồng ý về các vấn đề liên quan Hai bên tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận được mọi vấn đề
Người có quyền yêu cầu - Vợ hoặc chồng
- Cha, mẹ, người thân thích nếu một bên mất năng lực hành vi dân sự và là nạn nhân bạo lực gia đình
Cả hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn
Toà án có thẩm quyền giải quyết

- Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị yêu cầu ly hôn đơn phương cư trú hoặc làm việc.

- Nếu có yếu tố nước ngoài sẽ do Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện

TAND cấp huyện nơi cư trú của vợ hoặc chồng, tùy theo thỏa thuận giữa hai bên
Thời gian giải quyết Khoảng 02 – 06 tháng (có thể lâu hơn nếu tranh chấp phức tạp, cần điều tra, định giá...) Khoảng 01 – 03 tháng nếu đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Kết quả của quá trình giải quyết  Bản án ly hôn (có hiệu lực sau thời gian kháng cáo/phúc thẩm) Quyết định công nhận thuận tình ly hôn (có hiệu lực ngay, không cần chờ thời gian kháng cáo nếu các bên không thay đổi ý kiến)

1.3. Khi nào nên cân nhắc ly hôn đơn phương?

Ly hôn chưa bao giờ là một quyết định dễ dàng. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống, ly hôn đơn phương lại trở thành giải pháp cần thiết và hợp pháp để một người vợ hoặc chồng bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời chấm dứt một cuộc hôn nhân không còn giá trị. Vậy, khi nào thì nên xem xét lựa chọn ly hôn đơn phương? Dưới đây là một số gợi ý dành cho bạn:

  • Khi đối phương không đồng ý ly hôn nhưng hôn nhân đã rạn nứt nghiêm trọng
  • Khi bị bạo lực gia đình, xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm
  • Khi vợ/chồng có hành vi ngoại tình hoặc sống chung với người khác như vợ chồng
  • Khi người kia bỏ bê gia đình, không thực hiện nghĩa vụ vợ/chồng
  • Khi không thể thỏa thuận các vấn đề ly hôn (tài sản, con cái) một cách hòa bình
  • Khi sự tồn tại của cuộc hôn nhân gây tổn hại đến con cái...

Không ai mong muốn kết thúc hôn nhân bằng ly hôn. Tuy nhiên, khi mối quan hệ không còn là nơi an toàn, tôn trọng và yêu thương, thì việc lựa chọn ly hôn đơn phương là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Quan trọng là bạn cần nắm rõ quyền lợi của mình, chuẩn bị hồ sơ đầy đủ và nếu cần, hãy tìm đến luật sư để được hỗ trợ pháp lý kịp thời.

 

2. Điều kiện để được ly hôn đơn phương

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì hiện nay pháp luật cho phép vợ, chồng được phép ly hôn theo yêu cầu của một bên. Tuy nhiên, việc ly hôn này sẽ phải được thực hiện trên cơ sở quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:

Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

2.1. Đã tiến hành hoà giải tại Toà án nhưng không thành. 

Tại khoản 2 Điều 397 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cũng nêu rõ, khi giải quyết yêu cầu ly hôn thuận tình: "2. Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ; giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình."

Điều 54 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 về hòa giải tại Tòa án: "Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự."

Thủ tục hòa giải tại tòa án này được thực hiện trong giai đoạn trong khi chờ đưa vụ án ra xét xử sau khi vụ án đã được thụ lý. Việc hòa giải này có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện tính trách nhiệm cao của những người có thẩm quyền xét xử, luôn đề cao việc tạo điều kiện cho đương sự có cơ hội chia sẻ, trình bày, viết lời khai trước những người có quyền ra quyết định việc ly hôn của hai người.

Việc hòa giải này được thực hiện theo nguyên tắc được quy định tại Khoản 2 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quy định vệc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:

  1. Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;
  2. Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Trước khi tiến hành hòa giải, trong trường hợp xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể chủ động tham khảo ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan bảo vệ quyền trẻ em, hoặc chính quyền địa phương nơi vợ chồng cư trú. Mục đích của việc tham khảo này là để nắm bắt rõ hơn về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn, cũng như nguyện vọng của các bên liên quan, bao gồm cả vợ, chồng và con (nếu có). Thông tin thu thập được sẽ giúp Thẩm phán có cái nhìn toàn diện và đưa ra hướng hòa giải phù hợp với thực tế từng trường hợp cụ thể.

Trong quá trình hòa giải tại Tòa án, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải theo hướng đoàn tụ, nghĩa là sẽ phân tích, giải thích để hai bên hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân, đặc biệt là nghĩa vụ với con cái, từ đó tạo điều kiện để hàn gắn mối quan hệ, nếu còn khả năng. Trường hợp hai bên đồng ý đoàn tụ sau khi được hòa giải, Thẩm phán sẽ lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Ngược lại, nếu hòa giải không đạt kết quả, vợ chồng vẫn giữ nguyên quan điểm ly hôn và giữa họ có tranh chấp về con chung, tài sản hoặc nghĩa vụ tài chính, Thẩm phán sẽ lập biên bản hòa giải không thành và tiến hành các bước tiếp theo để mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn đơn phương theo quy định của pháp luật.

2.2. Có chứng cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng.

Thứ nhất, hành vi bạo lực gia đình là các hành động của vợ hoặc chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022Hành vi bạo lực gia đình bao gồm:

  1. Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;
  2. Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
  3. Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý;
  4. Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em;
  5. Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình;
  6. Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý;
  7. Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
  8. Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
  9. Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng;
  10. Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực;
  11. Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp;
  12. Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi;
  13. Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình;
  14. Cưỡng ép thành viên gia đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác;
  15. Cô lập, giam cầm thành viên gia đình;
  16. Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp luật.

Như vậy, có 16 hành vi được xem là hành vi bạo lực gia đình. Việc vợ hoặc chồng vi phạm các hành vi trên được xem là có hành vi bạo lực gia đình.

Thứ hai, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng là việc vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia. Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình do cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập...

Thứ ba, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được:

  • Không có tình nghĩa vợ chồng: Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng
  • Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình
  • Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau
  • Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.

Theo đó, khi ly hôn đơn phương vì những lý do kể trên thì sẽ được xem là lý do hợp pháp.

2.3. Không thuộc trường hợp pháp luật cấm hoặc hạn chế ly hôn đơn phương

Tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng nêu rõ: "Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi." Điều này được thể thiện rõ hơn tại Điều 2 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình, theo đó trong những trường hợp sau người chồng không có quyền yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn:

Điều 2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình

1. ...

3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.

4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.

5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.

6. Trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của chồng như sau:

a) Chồng của người mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

b) Chồng của người nhờ mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Trẻ nhỏ cần sự chăm sóc đặc biệt và sự hiện diện của cả hai cha mẹ là rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Quy định này nhằm bảo đảm rằng trẻ được hưởng đầy đủ tình cảm và sự chăm sóc từ cả cha lẫn mẹ trong những năm tháng đầu đời.

Nếu Quý khách có nhu cầu thuê dịch vụ luật sư ly hôn thì Luật Minh Khuê là một trong những lựa chọn hàng đầu. Với trụ sở đặt tại Hà Nội và TPHCM, Luật Minh Khuê luôn sẵn sàng cung cấp dịch vụ pháp lý đảm bảo chất lượng, uy tín và hiệu quả cao. Vui lòng liên hệ: 0986.386.648 gặp luật sư Tô Thị Phương Dung để được tư vấn và báo giá dịch vụ chi tiết.

 

3. Các trường hợp đặc biệt của ly hôn đơn phương

3.1. Ly hôn đơn phương khi một bên mất tích

3.1.1. Quy trình xử lý ly hôn đơn phương khi một bên mất tích

- Thủ tục tuyên bố một người mất tích được thực hiện theo quy định tại Chương XXVI Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo đó, thủ tục này được tiến hành gồm các bước sau:

Bước 1: Gửi đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích cho Tòa án

- Người gửi: Người có quyền, lợi ích liên quan;

- Hồ sơ, tài liệu gửi đến Tòa án, gồm:

  • Đơn yêu cầu tuyên bố mất tích;
  • Tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết;
  • Tài liệu, chứng cứ chứng minh người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm: Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú của Tòa án (bản sao)…

Bước 2: Chuẩn bị xét đơn

Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người mất tích. Thời gian thông báo tìm kiếm là 04 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu.

Bước 3: Xét đơn yêu cầu

Sau khi kết thúc thời hạn thông báo, trong vòng 10 ngày, Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

- Thủ tục ly hôn với người mất tích

Để ly hôn với người bị tuyên bố mất tích, người vợ/chồng phải thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương.

Theo đó, người yêu cầu ly hôn với người bị tuyên bố mất tích phải chuẩn bị và nộp cho Tòa án những loại giấy tờ sau:

  • Đơn xin ly hôn đơn phương (theo mẫu);
  • Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);
  • Căn cước hoặc hộ chiếu (bản sao có chứng thực);
  • Quyết định công bố một người mất tích;
  • Giấy khai sinh của con (nếu có, bản sao chứng thực);
  • Giấy tờ về quyền sở hữu tài sản (nếu có, bản sao chứng thực)…

Sau khi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ thì nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích (Căn cứ Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

3.1.2. Bản án về ly hôn với người mất tích số 15/2021/HNGĐ-ST ngày 09/04/2021

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ LY HÔN VỚI NGƯỜI MẤT TÍCH

Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2021   về   tranh   chấp   ly   hôn   theo   Quyết   định   đưa   vụ   án   ra   xét   xử   số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Tuyết Th, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ A, thôn B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Bị đơn: Anh Võ Đình Đ, sinh năm 1992.

Nơi cư trú cuối cùng: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

(Chị Th, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn, chị Lê Thị Tuyết Th trình bày: Sau khi tìm hiểu nhau được 03 năm thì chị Th và anh Võ Đình Đ mới đi đến hôn nhân. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 11-02-2015 tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình chồng tại xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 10-2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Đ sống không có trách nhiệm, không quan tâm tới cuộc sống gia đình. Theo chị Th thì anh Đ còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài nhưng chị Th không có chứng cứ. Đến tháng 4-2016 thì chị Th và anh Đ ly thân. Từ tháng 8-2016 thì anh Đ đi khỏi địa phương nhưng chị Th cũng không biết lý do. Sau thời gian tìm kiếm, liên lạc nhưng vẫn không biết tin tức nên chị Th đã làm đơn đề nghị Tòa án tuyên bố anh Đ mất tích. Ngày 29-9-2020, Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã có Quyết định số 09/2020/QĐDS-ST về việc tuyên bố anh Đ mất tích từ ngày 01-9-2016. Nay, chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về hôn nhân: Chị Th xin được ly hôn với anh Đ.

Về nuôi con chung: Chị Th và anh Đ có 01 người con chung là Võ Đình Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015. Chị Th có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Tr và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Võ Đình Đ đã được Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tuyên bố mất tích theo Quyết định số 09/2020/QĐDS-ST ngày 29-9-2020 vì vậy không lấy lời khai và tiến hành hòa giải được.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

Về nuôi con chung: Giao 01 người con chung cho chị Th được quyền nuôi dưỡng;anh Đ không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Chị Th và anh Đ sống chung với nhau có đăng ký kết hôn nay chị Th yêu cầu ly hôn nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Nơi cư trú cuối cùng của anh Võ Đình Đ là xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Th vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Th và anh Đ trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 11-02-2015 tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Theo chị Th sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 10-2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Đ sống không có trách nhiệm, không quan tâm tới cuộc sống gia đình. Đến tháng 4-2016 thì chị Th và anh Đ ly thân. Tại Quyết định số 09/2020/QĐDS-ST ngày 29-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tuyên bố anh Võ Đình Đ, sinh năm 1992 mất tích từ ngày 01-09-2016. Xét thấy, anh Đ là người bị Tòa án tuyên bố mất tích nên yêu cầu ly hôn của chị Th thuộc trường hợp xin ly hôn với người mất tích do vậy cần áp dụng khoản 2 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 68 của Bộ luật Dân sự xử cho chị Th được ly hôn với anh Đ.

 [2.2] Về nuôi con chung: Xét thấy, từ khi chị Th và anh Đ ly thân thì con chung là cháu Võ Đình Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015 do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Nay, chị Th có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Tr nên cần áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị Th nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

 [2.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

 [3] Về án phí: Chị Th phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (DSST) đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều  147  của  Bộ  luật  Tố  tụng  dân  sự;  Khoản 5 Điều 27  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Căn cứ khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự; Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Tuyết Th và anh Võ Đình Đ.

2.Về nuôi con chung: Chị Lê Thị Tuyết Th và anh Võ Đình Đ có 01 người con chung là Võ Đình Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015;

Giao con chung Võ Đình Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015 cho chị Lê Thị Tuyết Th trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị Tuyết Th không yêu cầu anh Võ Đình Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Võ Đình Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3.Về chia tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về án phí: Chị Lê Thị Tuyết Th phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà chị Th đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2020/0005132 ngày 24 tháng 02 năm 2021; chị Lê Thị Tuyết Th đã nộp xong án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

3.1.3.  Một số vướng mắc và bất cập trong thực tiễn

Tuyên bố mất tích là một biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên quan khi một cá nhân không thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, tuyên bố mất tích là một trong những căn cứ để Toà án giải quyết yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có những trường hợp, do mục đích tư lợi, một bên có hành vi cố ý che giấu thông tin, khai báo thông tin không đúng sự thật gây khó khăn trong việc xác định tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Việc lạm dụng biện pháp pháp lý trên có thể nhằm những muc đích tiêu cực để nhanh chóng kết thúc hôn nhân, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, phân chia tài sản, hoặc kết hôn với người khác mà không cần chờ đợi. Điều này có thể đẫn dến những hệ luỵ nghiêm trọng khi người bị tuyên bố mất tích trở về.

Tại điều 70 Luật Dân sự năm 2015 quy đinh:

Điều 70. Hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích

1. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.

2. Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.

3. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.

Theo Điều 69 BLDS 2015, tài sản của người bị tuyên bố mất tích sẽ được giao cho người quản lý tài sản (thường là con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản). Khi người bị tuyên bố mất tích trở về, họ có quyền nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế, việc này có thể gặp khó khăn nếu tài sản đã được sử dụng, chuyển nhượng hoặc hao hụt trong quá trình quản lý.

Bên cạnh đó, trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được Tòa án giải quyết cho ly hôn theo đúng trình tự, thủ tục luật định, thì dù người bị tuyên bố mất tích sau đó trở về hoặc có tin xác thực là người đó còn sống, bản án hoặc quyết định ly hôn vẫn giữ nguyên hiệu lực pháp luật, và quan hệ hôn nhân giữa hai người không được khôi phục. Trong bối cảnh đó, nếu người vợ hoặc chồng cũ đã tái hôn với người khác thì việc quay trở lại quan hệ cũ là điều không thể. Đây không chỉ là một sự thay đổi mang tính pháp lý đơn thuần mà còn là một cú sốc nặng nề về tinh thần đối với người được tuyên bố mất tích.

3.2. Ly hôn đơn phương do người thân yêu cầu (khi một bên mất năng lực hành vi dân sự)

3.2.1. Ai là người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự

Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

1. ...

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Như vậy để cha, mẹ, hoặc người thân thích khác có quyền đứng ra yêu cầu ly hôn thì cần thoả mãn 2 điều kiện:

  • Mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

  • Là nạn nhân của bạo lực gia đình nghiêm trọng. Người bi mất năng lực hành vi dân sự đồng thời là nạn nhân của hành vi bao lực gia đình. Hành vi bạo lực này do chính người vợ hoặc chồng của họ gây ra. Hâu quả của hành vi bạo lực ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tinh thần của người bị mất năng lực hành vi dân sự. Đây là yếu tố quan trọng để Toà án chấp nhận yêu cầu ly hôn từ người thân để bảo vệ người yếu thế

3.2.2.  Bản án về ly hôn với người mất năng lưc hành vi dân sự số 82/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018

BẢN ÁN 82/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 177/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2018/QĐXX-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà H'D (Vắng mặt) Địa chỉ: Buôn K, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Người đại diện theo pháp luật của bà H'D: Chị H'N, sinh năm: 1994(có mặt) Địa chỉ: Buôn K, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

2. Bị đơn: Ông Y B (Có mặt) Địa chỉ: Buôn Đ, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06 tháng 3 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn bà H'D là chị H'N trình bày:

Bà H'D là người bị mất năng lực hành vi dân sự theo Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự số: 02/2018/QĐST-DS ngày 18/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

Ông Y B và bà H'D tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, sống chung từ năm 1994, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã C, thành phố B vào ngày 13/10/1994.

Trong thời gian chung sống, đến năm 2004 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, tâm thần bà H'D không ổn định và ông Y B có hành vi bạo lực đối với bà H'D. Mâu thuẫn trầm trọng nên đến năm 2007 ông Y B và bà H'D sống ly thân, không quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Nay với tư cách là người giám hộ đương nhiên của bà H'D, chị H'N yêu cầu Tòa án cho bà H'D được ly hôn với ông Y B.

Trong thời gian sống chung, ông Y B và bà H'D có 6 con chung là:

- H'N, sinh năm 1994

- Y M, sinh năm 1997

- Y E, sinh ngày 13/5/1999

- H'J, sinh ngày 25/8/2001

- H'Y, sinh ngày 13/8/2005

- H'Đ, sinh ngày 02/02/2007

Từ khi ông Y B và bà H'D ly thân đến nay thì các con chung ở với bà H'D, do bà H'D bị tâm thần phân liệt, mất năng lực hành vi dân sự nên các con chung do H'N và dì ruột H'G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Nay Tòa án giải quyết ly hôn thì nguyện vọng của H'N là H'N, Y M, Y E đã thành niên nên việc ở với ai là quyền của các con chung. Các con chung H'J, H'Y, H'Đ, giao cho ông Y Bi Niê trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do bà H'D bị mất năng lực hành vi dân sự nên bà H'D do con cả là H'N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng cho bà H'D và các con chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án bị đơn ông Y B trình bày:

Việc ông Y B và bà H'D tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, thành phố B vào ngày 13/10/1994 và có sáu con chung là đúng.

Sống chung hạnh phúc một thời gian thì đến 2004 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bà H'D hay ghen tuông, cãi vã, tâm thần không ổn định. Mâu thuẫn trầm trọng nên đến năm 2007 vợ chồng ly thân, không quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Nay ông chấp nhận ly hôn với bà H'D.

Trong thời gian sống chung, ông và bà H'D có 6 con chung là:

- H'N, sinh năm 1994

- Y M, sinh năm 1997

- Y E, sinh ngày 13/5/1999

- H'J, sinh ngày 25/8/2001

- H'Y, sinh ngày 13/8/2005

- H'Đ, sinh ngày 02/02/2007

Từ khi vợ chồng ly thân đến nay thì các con chung ở với bà H'D. Nay Tòa án giải quyết ly hôn thì nguyện vọng của ông xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung H'J, sinh ngày 25/8/2001, H'Y, sinh ngày 13/8/2005, H'Đ, sinh ngày 02/02/2007 còn các con chung: H'N, sinh năm 1994, Y M, sinh năm 1997, Y E, sinh năm 1999 đã trưởng thành nên việc ở với ai là quyền của các cháu. Do bà H'D bị mất năng lực hành vi dân sự nên bà H'D do con cả là chị H'N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng cho bà H'D và các con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay đương sự có mặt vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng theo trình tự của BLTTDS, tại phiên tòa HĐXX cũng như nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

-Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H’N.

Về quan hệ hôn nhân: Bà H'D được ly hôn ông Y B;

Về con chung: H'N, sinh năm 1994, Y M, sinh năm 1997, Y E, sinh ngày 13/5/1999 đã thành niên, nên việc ở với ai là quyền của các cháu.

Giao các con chung: H'J, sinh ngày 25/8/2001, H'Y, sinh ngày 13/8/2005, H'Đ, sinh ngày 02/02/2007 cho ông Y B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

Bà H'D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Do bà H'D bị mất năng lực hành vi dân sự nên bà H'D do con cả là chị H'N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi bà H'D: Không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết;

Về chia tài sản: Không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn ông Y B cư trú tại xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà H'D đã bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo Quyết định số 02/2018/QĐST-DS ngày 18/01/2018. Theo quy định tại Điều 22, Điều 53, Điều 136 của Bộ luật dân sự thì người giám hộ đương nhiên của bà H'D là chị H'N, do đó chị H'N tham gia tố tụng với tư cách là đại diện theo pháp luật của bà H'D.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn bà H'D là chị H'N yêu cầu cho bà H'Dđược ly hôn ông Y B, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà H'D và ông Y B tự nguyện lấy nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngày 13/10/1994 là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ .

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án cả người giám hộ của nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận trong thời gian sống chung ông Y B và bà H'D có xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau, bà H'D bị bệnh tâm thần và ông Y B đã có hành vi đánh đập đối với bà H'D, từ năm 2007 vợ chồng đã sống ly thân nhưng mâu thuẫn vẫn không khắc phục được, nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã rất trầm trọng nên người giám hộ của bà H'D là chị H'N yêu cầu cho bà H'D được ly hôn ông Y B, ông Y B cũng đồng ý ly hôn với bà H'D.

Kết quả xác minh tại địa phương xác định: Ông Y B và bà H'D có đăng ký kết hôn và sinh sống với nhau tại Buôn K, xã C, thành phố B, trong thời gian chung sống vợ chồng Y B và bà H'D có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, thường xuyên xảy ra cãi vã, tinh thần của bà H'D không ổn định, hay cáu gắt chồng con nên có việc ông Y B đánh đập bà H'D, mặc dù đã được chính quyền địa phương động viên hòa giải nhưng không giải quyết được mâu thuẫn. Năm 2007, ông Y B bỏ đi sống ở nơi khác cho đến nay, vợ chồng không quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Bà H'D bị mắc bệnh tâm thần và được gia đình đưa đi điều trị.

Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình duy trì hôn nhân ông Y B và bà H’D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, và có bạo lực gia đình chính quyền địa phương hòa giải, can thiệp nhưng vẫn không khắc phục được, từ năm 2007 vợ chồng sống ly thân đến nay, không ai quan tâm, chăm sóc ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn người giám hộ của bà H'D là phù hợp theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Người giám hộ đương nhiên của bà H'D là chị H'N tự nguyện trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc bà H'D và không yêu cầu ông Y B cấp dưỡng nuôi bà H'D.

-Về con chung: ông Y B và bà H'D có 06 con chung là H'N, sinh năm 1994; Y M, sinh năm 1997; Y E, sinh ngày 13/5/1999; H'J, sinh ngày 25/8/2001; H'Y, sinh ngày 13/8/2005; H'Đ, sinh ngày 02/02/2007.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án chị H'N và ông Y B thống nhất giao các con chung H'J; H'Y; H'Đ cho ông Y B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng còn H'N, Y M, Y E đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy, việc thỏa thuận của ông Y B và chị H'N là phù hợp với nguyện vọng của các con chung, hơn nữa bà H’D bị mất năng lực hành vi dân sự nên để đảm bảo quyền lợi của các con chung cần giao các con chung chưa thành niên là H'J, H'Y, H'Đ cho ông Y B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là có căn cứ phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. H'N, Y M, Y E đã thành niên nên Tòa án không xem xét giải quyết. Bà H'D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Việc cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết .

[3] Về án phí: Chị H'N và bà H’D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; khoản 4 Điều 147; Điều 220; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 22, Điều 53, Điều 136 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H'N.

Về quan hệ hôn nhân: Bà H'D được ly hôn với ông Y B.

Về nuôi con chung: Giao các con chung là H'J, sinh ngày 25/8/2001; H'Y, sinh ngày 13/8/2005; H'Đ, sinh ngày 02/02/2007 cho ông Y B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi).

Các con chung: H'N, sinh năm 1994; Y M, sinh năm 1997; Y E, sinh năm 1999 đã trưởng thành nên việc ở với ai là quyền của các cháu, Tòa án không xem xét giải quyết.

Bà H'D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về việc nuôi dưỡng bà H'D: Chị H'N tự nguyện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng bà H'D.

Về cấp dưỡng nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi bà H'D: Các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị H'N và bà H D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bà H D được nhận lại 300.000đ tạm ứng án phí chị H'N đã nộp thay cho bà H'D theo biên lai thu số AA/2017/0003334 ngày 13/3/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, Đắk Lắk.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

3.2.3. Khó khăn trong giải quyết ly hôn đơn phương do người thân yêu cầu

  • Khó khăn trong việc chứng minh hành vi “bạo lực gia đình nghiêm trọng”. Trước hết, bản chất của bạo lực gia đình trong các trường hợp này thường diễn ra âm thầm và khó bị phát hiện. Người bị hại do mất năng lực hành vi dân sự nên không thể nhận thức đầy đủ, tự bảo vệ mình, hoặc trình bày sự việc trước cơ quan chức năng. Họ không thể tố giác, không thể khai báo và thường không để lại chứng cứ trực tiếp về hành vi bạo lực mà mình phải chịu đựng. Thêm vào đó, hành vi bạo lực thường không có nhân chứng nếu có thì là những người trong gia đình vốn dễ bị chi phối bởi tình cảm hoặc lệ thuộc vào người bạo hành
  • Thiếu rõ ràng trong viêc xác định: "người thân thích khác" Luật Hôn nhân và Gia đình chỉ quy định người có quyền yêu cầu ly hôn thay cho người bị mất năng lực hành vi dân sự là “cha, mẹ, người thân thích khác”, nhưng lại không định nghĩa rõ thế nào là “người thân thích khác” dẫn đến nhiều tranh cãi và cách hiểu không thống nhất trong thực tiễn xét xử dẫn đến thiếu nhất quán giữa các Tòa án địa phương, và dễ bị hiểu sai trong quá trình áp dụng pháp luật

3.3. Ly hôn đơn phương khi một bên ở nước ngoài

3.3.1. Thủ tuc ly hôn đơn phương khi một bên ở nước ngoài

Bước 1: Tiến hành Nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án

Người khởi kiện nộp hồ sơ xin ly hôn đơn phương có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh/thành phố có thẩm quyền. Hồ sơ bao gồm:

  • Giấy chứng nhận kết hôn bản gốc.
  • Giấy tờ tùy thân (bản sao có chứng thực căn cước hoặc hộ chiếu của cả hai vợ chồng).
  • Bản sao có công chứng còn hiệu lực giấy khai sinh của các con (nếu có).
  • Đơn xin ly hôn theo mẫu (có thể tải tại đây).
  • Giấy tờ chứng minh tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở…

Lưu ý:

  • Nếu hai vợ chồng kết hôn tại Việt Nam, nhưng một người xuất ngoại và không có địa chỉ cư trú cụ thể, cần bổ sung Giấy chứng nhận của chính quyền địa phương về việc xuất ngoại vào hồ sơ.
  • Nếu kết hôn ở nước ngoài, phải làm thủ tục ghi chú kết hôn tại UBND cấp huyện theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP. Nếu không ghi chú, cần nêu lý do trong đơn.

Bước 2: Tòa án xử lý đơn

Sau khi nộp đơn, Tòa án sẽ xác nhận bằng hình thức trực tiếp, qua bưu điện hoặc qua Cổng thông tin điện tử. Trong vòng 3 ngày làm việc, Chánh án hoặc Phó chánh án sẽ phân công một thẩm phán xem xét hồ sơ. Sau 5 ngày làm việc, thẩm phán sẽ quyết định:

  • Yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu hồ sơ chưa đạt đủ yêu cầu theo quy định.
  • Tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo hình thức rút gọn.

Nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án, thẩm phán sẽ chuyển đơn và thông báo cho người khởi kiện. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, thẩm phán sẽ thông báo bằng văn bản nêu rõ vấn đề cần bổ sung và thời hạn (không quá 1 tháng), có thể gia hạn thêm 15 ngày trong trường hợp đặc biệt.

Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm

  • Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận thông báo.
  • Sau khi nộp, nguyên đơn sẽ nhận biên lai và cần nộp lại cho Tòa án để thụ lý vụ án.
  • Tòa án sẽ thông báo cho nguyên đơn và bị đơn trong vòng 3 ngày làm việc sau khi thụ lý vụ án.

Bước 4: Tòa triệu tập các bên để tiến hành thủ tục

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án sẽ triệu tập các bên chuẩn bị xét xử. Thời gian chuẩn bị xét xử cho vụ án ly hôn là 4 tháng, có thể gia hạn thêm tối đa 2 tháng nếu có lý do chính đáng.

Những công việc trong bước giải quyết này bao gồm:

  • Hoàn thiện hồ sơ.
  • Xác định tư cách hợp pháp của đương sự và người tham gia tố tụng.
  • Làm rõ các tình tiết khách quan, xác định quan hệ tranh chấp.
  • Thông báo văn bản tố tụng và thu thập chứng cứ.
  • Tổ chức phiên họp hòa giải.

Lưu ý: Nếu đương sự ở nước ngoài, Tòa án sẽ ủy thác cho các cơ quan nước ngoài thực hiện việc tống đạt.

Bước 5: Xét xử tại Tòa án

Tòa án sẽ mở phiên tòa trong vòng 1 tháng kể từ khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, có thể kéo dài thành 2 tháng trong những trường hợp bắt buộc.

Lưu ý:

  • Khi Tòa triệu tập lần đầu, người tham gia phải có mặt. Nếu vắng mặt không có lý do, Tòa sẽ hoãn phiên tòa trừ khi có đơn xin xét xử vắng mặt.
  • Nếu vắng mặt lần 2 mà không có lý do, Tòa sẽ xử vắng mặt nguyên đơn, và đơn sẽ bị đình chỉ trừ khi có đơn xin xét xử vắng mặt.

Sau phiên tòa, Tòa sẽ cấp trích lục bản án trong 3 ngày làm việc. Bản án sẽ bao gồm:

  • Chấm dứt quan hệ hôn nhân.
  • Chia tài sản chung.
  • Quy định về nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng.

3.3.2. Bản án về việc ly hôn với người nước ngoài số 930/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 930/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 7 năm 2020 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 10/HNST ngày 07/01/2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2744/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 5906/2020/QĐST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 1976 Địa chỉ: đường T, phường H, quận P, Thành phố H.

2. Bị đơn: Ông S Steven, sinh năm 1961 Địa chỉ: CA 91731, USA.

Địa chỉ liên hệ: CA 91770, USA

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ T trình bày: Bà Nguyễn Thị Mỹ T và ông S Steven kết hôn hợp pháp vào năm 2014, được Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 29/5/2014, và được ghi vào sổ đăng ký kết hôn số 157, quyển số 01, ngày 05/6/2014. Sau khi kết hôn ông S Steven trở về nước nên vợ chồng chỉ liên lạc qua mạng xã hội và tin nhắn điện thoại. Thời gian gần đây, ông S Steven thường xuyên ghen tuôn vô cớ, xúc phạm danh dự nhân phầm bà trên tin nhắn và trang mạng xã hội. Mặc khác, nhiều lần về Việt Nam, ông S Steven còn có người phụ nữ khác. Bà đã nhiều lần tạo điều kiện hàn gắn để vợ chồng có thể đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nhận thấy mâu thuẫn của hai vợ chồng kéo dài không thể hàn gắn, tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Toà án cho bà được ly hôn với ông S Steven.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông S Steven đã được Tòa án ủy thác tư pháp để tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa xét xử vụ án theo các địa chỉ của ông, nhưng Tòa án vẫn không nhận được văn bản ghi ý kiến của ông. Căn cứ các Văn bản số 2117/BTP-PLQT ngày 27/5/2016, số 2460/BTP-PLQT ngày 06/8/2019, số 222/BTP-PLQT ngày 14/02/2020 của Bộ Tư pháp, Tòa án đã thông báo và tống đạt hợp lệ cho ông S Steven nhưng ông không có ý kiến về yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Mỹ T.

Tại phiên tòa sơ thẩm, - Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ T và bị đơn ông S Steven vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

+ Về việc chấp hành pháp luật tố tụng trong giai đoạn sơ thẩm: Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán và Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về các thủ tục tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thực hiện đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và các thủ tục tố tụng khác.

+ Về yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T: Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn ông S Steven.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng:

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ T vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 06 tháng 6 năm 2020;

Bị đơn ông S Steven vắng mặt mặc dù đã được Tòa án tống hợp lệ theo các Văn bản số 2117/BTP-PLQT ngày 27/5/2016, số 2460/BTP-PLQT ngày 06/8/2019, số 222/BTP-PLQT ngày 14/02/2020 của Bộ Tư pháp.

Do đó, căn cứ Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ T và bị đơn ông S Steven.

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị Mỹ T là công dân Việt Nam cư trú tại Thành phố H có đơn khởi kiện xin ly hôn với ông S Steven là công dân Hoa Kỳ, hiện đang cư trú tại Hoa Kỳ. Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 123, Khoản 1 Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 37, Điểm d Khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố H theo thủ tục sơ thẩm.

- Về yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Mỹ T:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang cấp ngày 29/05/2014, vào sổ đăng ký kết hôn số 157 Quyển số 01, ngày 05/6/2014 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Mỹ T và ông S Steven là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Theo bà Nguyễn Thị Mỹ T, sau khi kết hôn, bà Nguyễn Thị Mỹ T sống tại Thành phố H, còn ông S Steven thì trở về Hoa Kỳ sinh sống, nên vợ chồng chỉ liên lạc qua mạng xã hội và tin nhắn điện thoại. Thời gian gần đây, ông S Steven thường xuyên ghen tuôn vô cớ, xúc phạm danh dự nhân phầm bà trên tin nhắn và trang mạng xã hội. Mặc khác, nhiều lần về Việt Nam, ông S Steven còn có người phụ nữ khác. Bà đã nhiều lần tạo điều kiện hàn gắn để vợ chồng có thể đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nhận thấy mâu thuẫn của hai vợ chồng kéo dài không thể hàn gắn, tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Toà án cho bà được ly hôn với ông S Steven.

Căn cứ theo địa chỉ cư trú của ông S Steven được ghi trong Giấy chứng nhận kết hôn và theo địa chỉ do Cơ quan có thẩm quyền của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ cung cấp, thông qua Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Thành phố H đã ba lần tiến hành ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (theo Văn bản số 2117/BTP-PLQT ngày 27/5/2016, số 2460/BTP-PLQT ngày 06/8/2019, số 222/BTP-PLQT ngày 14/02/2020 của Bộ Tư pháp) để yêu cầu ông S Steven có ý kiến và cung cấp chứng cứ về đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Mỹ T, nhưng cho đến nay Tòa án nhân dân Thành phố H vẫn chưa nhận được trả lời của ông S Steven.

Như vậy, theo xác nhận của bà Nguyễn Thị Mỹ T thì bà không còn tình cảm với ông S Steven; Ông S Steven lại không có ở tại Việt Nam, không liên lạc với bà Nguyễn Thị Mỹ T, không có ý kiến gì về việc xin ly hôn của bà khi Tòa án yêu cầu, nên có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Mỹ T và ông S Steven đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T xin ly hôn ông S Steven là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Bà Nguyễn Thị Mỹ T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về án phí sơ thẩm: Do bà Nguyễn Thị Mỹ T là nguyên đơn xin ly hôn nên bà Nguyễn Thị Mỹ T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Mỹ T được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Ông S Steven có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 5, Khoản 1 Điều 28, Khoản 3 Điều 35, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 273, Điểm d Khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Khoản 1 Điều 56, Khoản 2 Điều 123, Khoản 1 Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T:

- Bà Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn ông S Steven.

- Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang cấp ngày 29/05/2014, vào sổ đăng ký kết hôn số 157 Quyển số 01, ngày 05/6/2014 không còn giá trị.

2. Về án phí sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Mỹ T phải chịu án phí sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) bà Nguyễn Thị Mỹ T đã nộp theo Biên lai số AG/2010/09846 ngày 04/01/2016 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố H. Bà Nguyễn Thị Mỹ T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Bà Nguyễn Thị Mỹ T được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Ông S Steven có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

3.3.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết ly hôn với người nước ngoài

Khi một trong các bên trong vụ án ly hôn là người nước ngoài và không rõ địa chỉ sinh sống hiện tại của họ, Tòa án Việt Nam sẽ phải áp dụng các quy định về ủy thác tư pháp để tống đạt văn bản tố tụng  Vụ án ly hôn với người nước ngoài không rõ địa chỉ thường kéo dài rất lâu, đôi khi lên đến vài năm hoặc hơn nữa. Ngay cả khi Tòa án Việt Nam đã ra bản án ly hôn, việc thi hành án (đặc biệt là chia tài sản ở nước ngoài hoặc truy đòi cấp dưỡng) có thể gặp vô vàn trở ngại nếu người nước ngoài không hợp tác hoặc bản án không được công nhận ở quốc gia của họ.​

Mọi vướng mắc liên quan đến việc ly hôn Bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162  để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.