1. Khái niệm tranh chấp đất đai

Đất đai là một loại tài sản quý giá, một tài nguyên do thiên nhiên ban tặng cho con người. Vì lẽ đó, có thể nói việc hưởng lợi từ đất đai trao cho, đất đai có vị trí là một đối tượng quan trọng của quyền sở hữu. Cũng vì thế mà TCĐĐ đã trở thành một trong những hiện tượng xảy ra trong bất kỳ một quốc gia và ở bất kỳ một thể chế chính trị nào.
Trong ngôn ngữ thông thường của cuộc sống hàng ngày, tranh chấp được hiểu là sự giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào. TCĐĐ là tranh chấp có đối tượng tranh chấp là đất đai. Nếu coi đối tượng của tranh chấp là đất đai thì TCĐĐ cũng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, TCĐĐ là sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định quyền sở hữu, quản lý hoặc quyền sử dụng đất đai. Tranh chấp này có thể được phát sinh trực tiếp hoặc phát sinh một cách gián tiếp trong quá trình các bên tranh chấp quản lý và sử dụng đất đai.Nghiên cứu dưới góc độ hẹp hơn thì TCĐĐ được hiểu là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai .
Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì TCĐĐ mang màu sắc chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, việc giải quyết triệt để các TCĐĐ ở các xã hội được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội. Theo quy định mới nhất tại Điều 3, Luật Đất đai  năm 2013,  khái niệm TCĐĐ đã được kế thừa và phát triển và được hiểu là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Từ nội dung khái niệm và các quan điểm về TCĐĐ, chúng ta có thể nhận định rằng khi các bên xảy ra tranh chấp mà không thể cùng nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phán xử nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Trong phạm vi luận văn, tác giả sử dụng khái niệm TCĐĐ của Luật Đất đai năm 2013.

2. Đặc điểm tranh chấp đất đai

Là một dạng đặc biệt và phổ biến của tranh chấp dân sự, TCĐĐ vừa chứa đựng những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, đồng thời lại vừa có những đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp kinh doanh, thương mại khác... mà những đặc điểm này sẽ giúp các nhà làm luật, nhà nghiên cứu và những người quan tâm có thể dễ dàng hơn trong tiếp cận và tiềm hiểu về TCĐĐ có thể chỉ ra những điểm khác biệt chủ yếu sau đây:

2.1 Một là, xét về chủ thể tranh chấp

TCĐĐ chỉ xuất hiện giữa các chủ thể có quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là các chủ thể của của quyền sở hữu đất đai. Bởi lẽ, ở Việt Nam, quyền sở hữu đất thuộc về toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Các chủ thể được Nhà nước giao cho quyền sử dụng đất được xác lập trên cơ sở được nhà nước trao quyền sử dụng đất (thông qua quyết định giao đất, hợp đồng cho thuê đất của Nhà nước hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng) hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ thể khác theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành. Vì thế, chủ thể của TCĐĐ là người sử dụng đất (các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) tham gia vào tranh chấp đó với tư cách là những người được trao quyền quản lý hoặc trao quyền sử dụng đất.

2.2 Hai là, so với các loại tranh chấp khác, TCĐĐ có nội dung rất đa dạng và phức tạp

Điều này xuất phát từ việc trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động quản lý và sử dụng đất ngày càng trở nên rất đa dạng, phong phú do đất đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử dụng khác nhau.

2.3 Ba là, khi xảy ra TCĐĐ thì sẽ ảnh hưởng đến các biên liên quan và có thể phát sinh những hậu quả xấu

về nhiều mặt trong mối quan hệ này như: làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Hơn thế nữa, khi nghiên cứu thực tiễn các vụ án về TCĐĐ, có thể thấy các vấn đề này còn có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ  xã hội của địa phương, đất nước.

2.4 Bốn là, TCĐĐ có đối tượng là quyền quản lý và quyền sử dụng đất

đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.

3. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai

3.1 Nguyên nhân khách quan

Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế quản lý làm cho đất đai ngày càng trở nên có giá trị đã tác động đến tâm lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng hoặc khi thực hiện một số chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà không có các văn bản xác định việc sử dụng đất ổn định của họ. Những tổ chức đó bao chiếm quá nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả.
Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài, gây xáo trộn lớn về nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai khác nhau áp dụng của từng thời kỳ, đã dẫn đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai năm 93 và 03 đã quy định, Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng nhưng nhiều trường hợp vẫn tranh chấp, khiếu nại đòi lại đất cũ.

3.2 Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, về hệ thống ván bản quản lý: Hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể phù hợp với địa phương này nhưng không phù hợp với địa phương khác và thường xuyên thay đổi, từ đó dẫn đến có một số trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện hoặc thiếu khách quan, không quan tâm đầy đủ đến quyền lợi của người sử dụng đất, gây nên những bức xúc. Mặt khác, chính sách, pháp luật đất đai từng bước thay đổi theo chiều hướng ngày càng quan tâm đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, từ đó tạo ra sự suy bì, nhất là trong chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc. Chưa kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để cụ thể hóa các văn bản qui phạm pháp luật đất đai đã giao quyền cho địa phương; chưa đầu tư kinh phí thỏa đáng để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, đảm bảo quản lý chặt chẽ  đối với từng thửa đất; công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, công tác thanh tra, kiểm tra về đất đai còn hạn chế, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai chưa kịp thời, thường xuyên.
Thứ hai, về công tác cán bộ thực hiện công vụ liên quan đến đất đai
Đất đai là vấn đề phức tạp, đã và đang phát sinh nhiều khiếu kiện, giải quyết một vụ việc cần phải có một khoảng thời gian nhất định, phải có các bước cụ thể. Vì vậy, cần phải có đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách. Nhưng, lực lượng làm công tác giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai ở địa phương hiện nay phần lớn là kiêm nhiệm. Khiếu nại về đất đai chủ yếu xảy ra ở cấp huyện nhưng bộ máy làm công tác ở cấp này lại không tương xứng. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai chậm chạp, thiếu chất lượng, tái khiếu nhiều, công dân phát sinh đơn vượt cấp.
Thứ ba, về đường lối chính sách đất đai: Chính sách đất đai và các chính sách khác có liên quan đến đất đai hiện nay của nước ta chưa đồng bộ, có mặt không rõ ràng và đang còn biến động và phức tạp. Thực tế áp dụng các chính sách đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản  xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có khả năng hoặc nhu cầu sản xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém hiệu quả. Tình trạng người nông dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng có nguyên nhân từ việc thiếu đất để sản xuất. Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã nhỏ lên quy mô lớn không phù hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa bãi, lãng phí và kém hiệu quả. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp được đổi mới, người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi hỏi phải có một diện tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư tưởng đòi lại đất để sản xuất. Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới đã tạo cơ sở cho việc lấn chiếm đất đai diễn ra khá phổ biến, song chưa được giải quyết và xử lý kịp thời. Sự không đồng nhất về cơ chế chính sách, về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở từng thời điểm khác nhau trên cùng địa bàn, không chấp hành đúng hoặc chưa đầy đủ qui định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, tái định cư. Bên cạnh đó, một số bộ phận làm công tác bồi thường, cán bộ địa chính không nắm vững chính sách, pháp luật đất đai nên quá trình thực hiện các bước trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng người dân chưa thỏa mãn, còn nghi ngờ dẫn đến phát đơn khiếu kiện.
Thứ tư, về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về đất đai: Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai hiện nay mặc dù đã được triển khai nhưng chưa được coi trọng, làm cho nhiều văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân để giúp cán bộ, nhân dân nhanh chóng cập nhật kiến thức về pháp luật liên quan.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật đất đai - Công ty Luật Minh Khuê