Mục lục bài viết
1. Sự xuất hiện của Nghị viện.
Nghị viện, hoặc gọi nghị hội, là một loại hình thái của cơ quan lập pháp, do số lượng đại biểu nhất định trong nhân dân bầu ra mà hợp thành nhằm nắm giữ quyền lập pháp; các vị đại biểu này gọi là nghệ sĩ, có thể thông qua bầu cử trực tiếp hoặc bầu cử gián tiếp mà sản sinh, cũng có thể là do nhà nước uỷ nhiệm. Nghị viện thường dùng để chỉ và gọi cơ quan lập pháp của nước dân chủ, bởi vì phần lớn nội dung công việc tiến hành của nó đến từ ý muốn của người dân, do đó cũng được gọi là "cơ quan dân ý"; tuy nhiên, nghị viện cấp bậc nhà nước, được gọi là nghị viện nhà nước, gọi tỉnh lược là "quốc hội".
Nghị viện của nước dân chủ hiện đại thông thường đều lấy quốc hội Anh Quốc có lịch sử lâu dài nhất coi là khuôn mẫu, Vương quốc Liên hợp Anh và Bắc Ireland là một nước có thể chế quân chủ lập hiến và chế độ dân chủ nghị viện đầu tiên, thi hành chế độ lưỡng viện. Nghị viện bắt nguồn từ Anh Quốc, là từ hội nghị thứ bậc mang tính chất phong kiến mà diễn biến tới nay. Năm 1966, quý tộc Montfort lấy danh nghĩa nhiếp chính để triệu tập mở hội nghị do quý tộc, tăng lữ, kị sĩ và cư dân thành phố tham gia. Về sau được biết là điểm mở đầu của nghị viện Anh Quốc, năm 1688 sau Cách mạng Quang Vinh, nghị viện thông qua "Dự luật Quyền lợi" và "Luật kế thừa ngôi vua" lần lượt vào năm 1689 và 1701, cấp cho nghị viện các phương diện quyền lực như chế định luật pháp, quyết định dự toán tài chính công, quyết định kế thừa ngôi vua và giám sát việc quản lý hành chính, từ đó nghị viện biến thành là cơ quan lập pháp tối cao.
Mặc dù nghị viện phổ biển bị coi là một cái vòng của hệ thống các nước dân chủ, nhưng một bộ phận các nước phi dân chủ cũng có nghị viện "bức bình phong". Thế giới ngày nay, nghị viện đang tiếp nhận sự giám sát và áp lực đến từ công chúng mà trước giờ chưa từng có, đóng vai trò ngày càng trọng yếu ở trong đời sống chính trị của đất nước. Bên trong quốc hội thông thường chia làm đảng cầm quyền và đảng đối lập, ở trong tình hình bình thường, đảng cầm quyền hỗ trợ và ủng hộ chính phủ trung ương thực thi việc chính trị, tất cả chính sách mà chính phủ trung ương đề xuất, thông thường đưa ra phát ngôn biện luận có lợi và bỏ phiếu tán thành đối với chính phủ trung ương, mong mọi thông qua thuận lợi tất cả dự luật và dự thảo nghị quyết, nhưng mà đảng đối lập thị trái lại, thậm chí làm ra phản kháng bằng mọi hình thức; do đó bất luận đảng cầm quyền hay đảng đối lập số nghị sĩ ở trong nghị viện vô cùng trọng yếu. Người đứng đầu của quốc hội gọi là "nghị trưởng", bậc dưới có "phó nghị trưởng, bậc dưới nữa vẫn còn có "chủ tịch uỷ ban" của mỗi công việc, các quan chức như "nghị trưởng", "phó nghị trưởng" và "chủ tịch uỷ ban" đều là do nghị sĩ đề cử lẫn nhau hoặc thăng chức nội bộ; chỉ có "tổng thư ký" là quan chức do chính phủ uỷ nhiệm, vì vậy tổng thư ký không có quyền phát ngôn, bỏ phiếu hoặc phán xử quyết định, chỉ có quyền lợi phê duyệt văn kiện. Quy mô kiến trúc của cao ốc quốc hội, thông thường đại biểu quyền uy và tôn nghiêm của nghị viện, tượng trưng chủ quyền thuộc về nhân dân và nghị viện tối thượng.
Mặt khác, số nghị sĩ thông thường cố định nhưng cũng có thể biến động, để tránh khỏi chi trả giá thành nghị sĩ quá lớn vào lúc có quá nhiều nghệ sĩ, song lúc quá ít sẽ ảnh hưởng chất lượng thẩm tra dự luật, chính sách nhà nước dễ bị quan lại thao túng. Sự xuất hiện của nghị viện, Nghị viện do nghị sĩ hợp thành. Nghị sĩ thông thường đều do tuyển cử sản sinh, nhất là nghị sĩ Hạ viện của nước có chế độ lưỡng viện thông thường đều do cử tri trực tiếp tuyển cử sản sinh, nghị sĩ Thượng viện có cái do tuyển cử sản sinh, có cái do ra lệnh bổ nhiệm hoặc thân phận đặc thù mà lấy được tư cách nghị sĩ. Nhiệm kỳ của nghệ sĩ thông thường nhiệm kỳ Thượng viện dài hơn nhiệm kỳ Hạ viện. Nghị viện có sắp đặt nghị trường, đảm nhiệm chủ tịch nghị viện, chủ trì kỳ họp nghị viện, nắm giữ chương trình nghị sự, quản lý và giám sát công việc hành chính của nghị viện, đại biểu nghị viện đối ngoại. Hạ nghị viện có sắp đặt các loại uỷ ban thường trực coi là cơ quan mang tính hỗ trợ, hiệp trợ nghị viện thẩm tra dự thảo nghị quyết có liên quan. Nghị viện của chế độ lưỡng viện lại còn có sắp đặt uỷ ban toàn viện và uỷ ban hiệp thương lưỡng viện. Nghị viện của nước chủ nghĩa tư bản hiện đại tất cả đều có đảng đoàn nghị viện, để có lợi cho các chính đảng tăng cường kiểm soát và ảnh hưởng đối với nghị viện.
2. Vị trí pháp lý của Nghị viện.
Nghị viện sinh ra xuất hiện cùng hiến pháp. Sự xuất hiện của nghị viện được khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân và là cơ sở Hành pháp của chính quyền. Nghị viện do nhân dân bầu ra và nhận quyền lực từ người dân giao cho, qua đó khẳng định tính Hành pháp của chính quyền.
Nghị viện đảm bảo cho chính quyền đó được điều hành bởi pháp luật dựa trên nền tảng pháp luật, pháp luật là cơ sở của hình thức tổ chức quyền lực. Mọi chủ thể trong bộ máy nhà nước phải hoạt động trên cơ sở pháp luật, không được trái luật. Giới hạn trong hoạt động tổ chức của chính quyền và nghị viện đặt ra về tổ chức các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như chính quyền từ trung ương đến địa phương. Nghị viện đảm bảo sự ngự trị của pháp luật trong lĩnh vực sinh hoạt của công dân, Nghị viện ban hành ra đạo luật tạo khuôn khổ pháp lý cho công dân và giám sát việc thi hành pháp luật của công dân để đảm bảo việc thi hành được tôn trọng. Bị Thông qua luật pháp của nghị viện để tạo ra giới hạn pháp lý để ngăn chặn sự và chạm của chính quyền đối với quyền con người. Pháp luật quy định nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người và không được xâm phạm quyền tự do của công dân.
3. Phân tích chế độ lưỡng viện và đơn viện.
3.1. Chế độ lưỡng viện
- Chế độ lưỡng viện là chế độ tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, theo đó cơ quan này gồm có hai viện hợp thành. Là ở những nước mà nghị viện (congress) được tổ chức theo chế độ lưỡng viện thì một viện gồm những đại biểu được bầu ra theo tỉ lệ dân cư (viện dân biểu hay còn gọi là hạ nghị viện). Còn một viện gồm các đại biểu được bầu ra đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh thổ hoặc được hình thành theo một phương thức riêng (thượng nghị viện). Các đạo luật chỉ được nghị viện (quốc hội) thông qua khi được cả hai viện biểu quyết tán thành. Cơ quan lập pháp ở một số nước theo chế độ lưỡng viện được tổ chức thành thượng nghị viện và hạ nghị viện (viện nguyên lão và viện dân biểu). Hai viện này có quyền hạn khác nhau nhằm hạn chế lẫn nhau. thể độ lưỡng viện được thành lập chủ yếu ở các nhà nước mà việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền. Trừ một số nước ở Bắc , còn hầu hết các nước tư sản đều có tổ chức chế độ lưỡng viên, điển hình là Anh, Mỹ, Pháp.
3.2. Chế độ đơn viện
Chế độ một viện là Hình thức tổ chức cơ quan lập pháp trong đó tất cả các đại biểu, nghị viện chỉ làm việc trong một cơ cấu thống nhất, cùng thảo luận và biểu quyết các công việc tại kỳ họp. Chế độ đại nghị chi gồm một viện thường gặp ở các nước đang phát triển. Điều này phụ thuộc vào hai lý do:
1). Cơ cấu lãnh thổ của các nước đang phát triển hầu hết là cơ cấu đơn nhất, không có sự xung đột hay mâu thuẫn lợi ích quốc gia và lợi ích của các khu vực lãnh thổ là thành viên cấu thành quốc gia.
2). Chế độ một viên làm cho quá trình lập pháp được đơn giản hóa, phù hợp với các nước đang cần nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật.
4. Thẩm quyền của Nghị viện.
- Thẩm quyền trong lĩnh vực lập pháp, thẩm quyền này có thể chia thành 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu của Chủ nghĩa tư bản khi chủ nghĩa Nghị viện đang hưng thịnh thì Nghị viện có thể ban hành bất cứ đạo luật nào mà Nghị viện thấy cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
+Giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ chủ nghĩa tư bản độc quyền cho đến nay. Ở giai đoạn này quyền hạn lập pháp của Nghị viện bị hạn chế. Xu hướng chung là Nghị viện chỉ được phép ban hành những luật mà những luật đó không can thiệp sâu vào lĩnh vực hành pháp. Ví dụ, Hiến pháp năm 1958 của Pháp hạn chế phạm vi các lĩnh vực mà Nghị viện ban hành luật tại Điều 34. Hiến pháp nhiều Nhà nước tư sản cũng quy định các vấn đề tương tự. Tuy nhiên có một số Nhà nước tư sản như Anh, Hy Lạp, Nhật Bản không hạn chế phạm vi lập pháp của Nghị viện
- Thẩm quyền của Nghị viện trong lĩnh vực ngân sách và tài chính.
+ Nghị viện quy định về quản trị tài chính quốc gia;
+ Quyết định ngân sách nhà nước;
+ Thực hiện quyền kiểm sát thanh tra việc thu và chi ngân sách Nhà nước;
+ Quyết định việc lập và thu các loại thuế cũng như quyền lập pháp, quyền của Nghị viện trong lĩnh vực này cũng có xu hướng bị cơ quan hành pháp lấn át.
- Thẩm quyền trong lĩnh vực đối ngoại và phòng thủ quốc gia: Theo nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân Nghị viện - cơ quan dân cư, cơ quan đại diện của nhân dân có quyền quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình. Tuy nhiên trên thực tế Tổng thống hoặc Chính phủ có thể đặt Nghị viện trước một việc đã rồi buộc Nghị viện phải phê chuẩn. Nghị viện quyết định ngân sách quốc phòng, quyết định việc gia nhập các liên minh quân sự, quy định điều kiện gọi phục vụ quân sự. Nghị viện có quyền phê chuẩn hoặc hủy bỏ tất các hiệp ước do Chính phủ ký kết. Còn ở Pháp, Italia và Cộng hòa Liên bang Đức thì Nghị viện chỉ có quyền phê chuẩn hoặc hủy bỏ một số hiệp ước quan trọng. Để đánh giá vai trò của Nghị viện trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại cần thiết phải xác định sự ảnh hưởng của Nghị viện đối với nội dung của các hiệp ước quốc tế. Ở Pháp quy chế Nghị viện không cho phép. Nghị viện biểu quyết từng điều khoản của Hiệp ước mà chỉ cho phép biểu quyết phê chuẩn hay không phê chuẩn toàn văn bản Hiệp ước. Nhiều nhà nước khác cũng có những quy định tương tự như vậy.
Tuy nhiên ở Hoa Kỳ, Thượng nghị viện trong nghị quyết về phê chuẩn Hiệp ước quốc tế có thể sửa đổi hoặc bổ sung bất kỳ điều nào liên quan đến các vấn đề chính trị, quốc phòng, tài chính lãnh thổ quốc gia và những Hiệp ước có thể dẫn đến sự thay đổi một đạo luật trong nước thì Chính phủ phải được sự chấp thuận của Nghị viện trước lúc ký kết (hiến pháp Tây Ban Nha, Đan Mạch, Italia) Ngoài thẩm quyền phê chuẩn các Hiệp ước quốc tế Nghị viện còn có thẩm quyền phê chuẩn hoạt động đối ngoại của Chính phủ. Tuy nhiên, sự phê chuẩn này chỉ mang tính hình thức. Đó chỉ là cách để kiểm tra hoạt động đối ngoại của Chính phủ.
- Thẩm quyền của Nghị viện trong lĩnh vực tư pháp:
Ở đa số các nhà nước tư sản Nghị viện có quyền luận tội và xét xử Tổng thống cũng như các quan chức cao cấp của bộ máy Nhà nước theo thủ tục gọi là đàn hạch (Impeachment). Ở nước Anh Hạ nghị viện luận tội và Thượng nghị viện kết tội.
Ở Hoa Kỳ theo quy định của Hiến pháp Hạ nghị viện có quyền buộc tội các quan chức cao cấp của Nhà nước. Khi luận tội Tổng thống và Phó tổng thống Mỹ thì điều khiển phiên họp xét xử của Thượng viện là Chính tòa Pháp viện tối cao. Hình phạt là sự các chức đối với các quan chức phạm tội. Còn các hình phạt khác theo Luật Hình sự thì tòa án tuyên phạt theo thủ tục bình thường.
Ở một số nhà nước tư sản như Nhật, Pháp, Italia và các quốc gia mà Nghị viện chỉ có một viện thì việc khởi tố thuộc thẩm quyền của toàn Nghị viện. Sau đó tòa án đặc biệt sẽ xét xử (Hy Lạp, Pháp, Đan Mạch, Nhật Bản) hoặc do Tòa án Hiến pháp hoặc Pháp viện tối cao xét xử.
- Quyền hạn của Nghị viện trong lĩnh vực giám sát hoạt động của bộ 3 máy hành pháp Nghị viện có quyền chất vấn Chính phủ, đòi hỏi Chính phủ phải giải trình trước Nghị viện việc thực hiện các hoạt động đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên ở các mà Tổng thống có quyền giải tán Hạ nghị viện (ví dụ Pháp) thì việc chất vấn cũng chỉ mang tính chất hình thức. Vì trong trường hợp Hạ nghị viện quá mâu thuẫn với Chính phủ do Tổng thống thành lập. Tổng thống sẽ giải tán Hạ nghị viện. Ở một số nước c theo thể chế Cộng hòa Tổng thống. Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Nghị viện mà chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng thống nên thông thường Nghị viện chỉ chất vấn Tổng thống.
Theo thể chế Cộng hòa Nghị viện, Nghị viện có thể bỏ phiếu không tín nhiệm buộc Chính phủ phải giải tán. Ở nhiều Nhà nước tư sản để kiểm tra hoạt động của Chính phủ Nghị viện thanh tra gọi là “Ombudsman”? thành lập các Ủy ban thường trực hoặc bổ nhiệm một số nhân viên
5. Cơ cấu của Nghị viện.
1. Các viện của nghị viện
Nghị viện của các nước trên thế giới có thể có một viện hoặc hai viện. Các nước có chế độ một viện như Hy Lạp, Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Bồ Đào Nha... Các nước có chế độ hai viện như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Italia, Đức…cho các đơn vị hành chính lãnh thổ hoặc được hình thành theo một phương thức riêng (thượng nghị viện). Các đạo luật chỉ được nghị viện (quốc hội) thông qua khi được cả hai viện biểu quyết tán thành. Cơ quan lập pháp ở một số nước theo chế độ lưỡng viện được tổ chức thành thượng nghị viện và hạ nghị viện ( viện nguyên lão và viện dân biểu). Hai viện này có quyền hạn khác nhau nhằm hạn chế lẫn nhau. Chế độ lưỡng viện được thành lập chủ yếu ở các nhà nước mà việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền. Trừ một số nước ở Bắc Âu. Còn hầu hết các nước tư sản đều có tổ chức chế độ lưỡng viện, điển hình là Anh, Mỹ, Pháp. Chế độ một viện là Hình thức tổ chức cơ quan lập pháp trong đó tất cả các đại biểu, nghị viện chi làm việc trong một cơ cấu thống nhất, cùng thảo luận và biểu quyết các công việc tại kỳ họp.
Chế độ đại nghị chỉ gồm một viện thường gặp ở các nước đang phát triển. Điều này phụ thuộc vào hai lý do:
1). Cơ cấu lãnh thổ của các nước đang phát triển hầu hết là cơ cấu đơn nhất, không có sự xung đột hay mâu thuẫn lợi ích quốc gia và lợi ích của các khu vực lãnh thổ là thành viên cấu thành quốc gia.
2). Chế độ một viện làm cho quá trình lập pháp được đơn giản hóa, phù hợp với các nước đang cần nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê (sưu tầm và biên tập).