1. Quy định về rút đơn khởi kiện của người bị hại? 

Căn cứ quy định của: Luật hình sự năm 1999 (Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009) trước đây và thay thế bởi Luật hình sự năm 2015 (Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trước đây (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) có thể phân tích như sau:

Đơn bãi nại được hiểu là rút yêu cầu khởi kiện, có nghĩa là không còn thưa kiện nữa. Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi phạm tội nếu được bãi nại là không bị xử lý hình sự. Dựa theo quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2003, nếu người bị hại có đơn bãi nại thì cơ quan pháp luật sẽ không xử lý đối với 11 tội danh:

- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 - Điều 104 - Bộ luật Hình sự).

- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 - Điều 105 - Bộ luật Hình sự). - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Khoản 1 - Điều 106 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 - Điều 108 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 - Điều 109 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội hiếp dâm (Khoản 1 - Điều 111 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội cưỡng dâm (Khoản 1 - Điều 113 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội làm nhục người khác (Khoản 1 - Điều 121 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội vu khống (Khoản 1 - Điều 122 - Bộ luật Hình sự).

 - Tội xâm phạm quyền tác giả (Khoản 1 - Điều 131 - Bộ luật Hình sự).

 -Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 - Điều 171 - Bộ luật Hình sự).

Luật Minh Khuê trả lời một số câu hỏi thực tế: 

Thưa luật sư, vào một ngày tháng 2 năm 2016, gia đình tôi đã phát hiện trong bồn chứa nước sinh hoạt bị bỏ thuốc thuốc diệt cỏ nhưng không ảnh hưởng đến tính mạng con người. nhưng một số tài sản đã hư hại và có trình báo cơ quan công an. Khi cơ quan công an làm viêc và phát hiện được người cùng xóm bỏ thuốc. qua thời gian điều tra gia đình ông hàng xóm đền bù mua lại một số vật dụng dã đập phá. Trong thời gian đó gia đình ông hàng xom có năn nỉ và xin gia đình tôi làm giấy bãi nại. Xin hỏi luật sư. Nếu gia đình tôi làm giấy bại nại thì ông hàng xóm có bị đi tù không. Tôi làm giấy nại có đúng pháp luật không. Tôi làm giấy bại nại xong nếu sau này ông hàng xóm có tính tiểu nhân lại tiếp tục bỏ thuốc thì cơ quan chức năng co can thiệp không. Tôi xin cảm ơn.

Trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp, người hàng xóm có hành vi bỏ thuốc diệt cỏ vào bể nước nhà bạn. Xét tính nghiêm trọng của hành vi này có thể gây thiệt hại đến tính mạng của gia đình bạn và đã thỏa mãn các dấu hiệu của tội giết người, dù hậu quả nghiêm trọng chưa xảy ra. Tội giết người là một trong những tội mà dù người bị hại rút đơn khởi kiện thì Cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra, xử lý vụ án, do đó, dù bạn có rút đơn khởi kiện thì người hàng xóm vẫn phải chịu TNHS về tội giết người.

 

Thưa luật sư, Em trai của em vào ngày 21/7 có đi chơi với bạn và được bạn chở bằng xe máy. Trong lúc đi xe hai đứa bị té và em trai của em mất, bạn nó thì bị thương nhẹ. Em trai em năm nay 14 tuổi còn bạn nó 17 tuổi. Đến nay đã tròn 49 ngày mất của em trai em. Gia đình bạn của em trai em có qua thăm hỏi vài lần và có nhờ gia đình em viết giấy bãi nại. Gia đình em từ lúc đó đến giờ chưa nhận được thông báo cụ thể, rõ ràng nào từ công an cả và cũng chưa đề đơn kiện tụng gì. Cho em hỏi trong trường hợp này có viết giấy bãi nại không và bạn của em trai em có thể bị phạt như thế nào. Em xin chân thành cảm ơn và mong nhận được hồi âm sớm.

Trả lời:

Bạn của em trai bạn điều khiển xe khi mới 17 tuổi, vi phạm quy tắc đối với người điều khiển phương tiện giao thông. Theo quy định tại điều 202 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì hành vi vi phạm quy atwcs giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử phạt như sau:

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Tội phạm quy định tại điều 202 kể tren cũng không thuộc trường hợp không xử lý hình sự khi có đơn bãi nại, do đó, dù gia đình bạn có khởi tố hay không thì người bạn của em trai bạn cũng sẽ bị truy cứu TNHS về tội này.

 

Thưa luật sư, cho em hỏi , em muôn bãi nại có vi phạm pháp luạt không?

Trả lời:

Bãi nại được hiểu là việc rút đơn khởi kiện, là điều pháp luật không cấm nên khi viết đơn bãi nại không được coi là vi phạm pháp luật. Theo quy định kể trên, chỉ có một số tội khi có đơn bãi nại cơ quan điều tra mới dừng xử lý vụ án. Với các trường hợp không thuộc các tội quy định tại điều 105 Bộ Luật tố tụng hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2011 thì vụ án vẫn được xử lý theo quy định của pháp luật dù có đơn bãi nại.

 

Xin chào luật sư nhà em có đứa con đăng hình bạn gái lên mạng và giờ bị bắt giữ để điều tra, và được bảo lãnh về ,bên phía người bị hại thì rút đơn kiện cáo rồi vậy người nhà có thể lên lấy lại điện thoại công an đang tạm giữ được không thưa luật sư.

Trả lời:

Hành vi đăng hình ảnh lên mạnh nhằm mục đích xâm phạm danh dự, nhân phảm của người đó có thể bị truy cứu TNHS đối với tội làm nhục người khác. Theo quy định tại điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội này thuộc nhóm tội danh dừng xử lý nếu có đơn bãi nại, khi đó cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án. Đối với vật chứng của vụ ấn là chiếc điện thoại sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.” Việc xử lý vật chứng giải quyết như sau (Điều 76 BLTTHS 2004):

“1. Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.

2. Vật chứng được xử lý như sau:

a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc tiêu huỷ;

b) Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;

c) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước;

d) Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật;

đ) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.”

Như vậy, tài sản là vật chứng chỉ được trả lại khi vụ án bị đình chỉ hoặc vụ án đã được giải quyết. Trong trường hợp này, khi có đơn bãi nại, vụ án sẽ dừng lại ở giai đoạn điều tra và quyết định xử lý vật chứng sẽ do cơ quan công an quyết định. bạn có thể liên hệ với cơ quan điều tra khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

 

Thưa luật sư, Em tôi điều khiển xe tải đang chạy trên tuyến đường QL1 quận thốt nốt xe chạy đúng tốc độ và làng đường quy định bất ngờ có 1 xe moto do một ông cụ khoảng 80 tuổi chạy ngược chiều đâm ra ngoài đụng vào xe tải em tôi đang điều khiển và ông ấy đã chết trên đường đi câp cứu.. gia đình e tôi cũng đã đến nhà lo việc mai táng đầy đủ. Nhưng bên gia đình người chết bắt gia đình tôi phải bồi thường 200tr nếu không sẽ đưa ra tòa.. zậy cho tôi hỏi nếu ra tòa thì em tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sưh hay không... chân thành cảm ơn

Trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp, em của bạn điều khiển xe đúng các quy định của Luật giao thông, do đó sẽ không bị truy cứu TNHS dù lái xe làm chết người. Tuy nhiên, em trai bạn vẫn phải bồi thường cho người bị hại do xe tải là một nguồn nguy hiểm cao độ, người trực tiếp quản lý, sử dụng nó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại ngay cả khi người bị hại cũng có lỗi.

Theo Điều 604 BLDS 2005 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:

"1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường."

Căn cứ theo quy định tại điều 604, 610 Bộ Luật dân sự 2005 em trai bạn cần bồi thường tiền chi phí khi đi viện, mai tang phí, khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết, khoản bù đắp về tổn thương tinh thần. Mức bồi thường hai gia đình tự thỏa thuận với nhau. Do không mắc lỗi nên em trai bạn không bị truy cứu TNHS, nếu không thỏa thuận được mức bồi thường thì gia đình người bị hại có thể làm đơn yêu cầu tòa án xác định mức bồi thường.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số1900.6162 hoặc liên hệ văn phòngđể nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

 

2. Người bị hại rút đơn khởi kiện thì còn bị khởi tố nữa không?

Chào luật sư!!! em muốn hỏi. chồng của em hiện đang bị tạm giam . nguyên nhân là đánh nhau (đánh hội đồng) giữa hai đám thanh niên. do hai bên xích mích và bên kia đã gọi 1 người thứ ba đến. và người đó đến tự nhiên lao vào vụt chồng em. chồng em chạy vào rút con dao gọt hoa quả thường để trong cặp xách ra đâm đúng một nhát vào người thứ ba đó.
Kết quả là người thứ ba bị mất một quả thận. sau đó sáng hôm sau chồng em đã ra ca huyện tự thú. và trong quá trình bên bị đâm nằm viện gia đình em có xuống thăm và đền bù tiền viện phí. hiện hai bên đã đền bù thoả đáng và nhà bị hại đã viết đơn bãi nại. vậy luật sư cho em hỏi chồng em sẽ bị chịu án phạt như thế nào ạ?
em xin cảm ơn.

>> Luật sư tư vấn luật tư vấn pháp luật Hình sự trực tuyến, gọi:  1900.6162

 

Trả lời:

Về việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bi hại, Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định:

"Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."

Theo đó, nếu như hành vi của chồng bạn cấu thành tội phạm được quy định tại Khoản 1 của Điều 104 về tội cố ý gây thương tích thì vụ án chỉ được khởi tố nếu có yêu cầu của người bị hại. Trường hợp người đó rút đơn thì sẽ không có quyền yêu cầu lại nữa. Tuy nhiên, điều này chỉ áp dụng nếu tội phạm thuộc khoản 1, nếu tội phạm ở Khoản 2 thì việc viết đơn bãi nại của người bị hại chỉ có tác dụng giảm nhẹ hình phạt.

Bộ luật Hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

"Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

Như vậy, việc xác định thuộc Khoản 1 hay Khoản 2 sẽ căn cứ vào tỷ lệ thương tật của người kia. Nếu người đó từ chối giám định tỷ lệ thương tật thì chồng bạn sẽ không bị khởi tố khi người bị hại rút đơn.

+ Bài viết tham khảo thêm:

Trên đây là tư vấn của Luật Minh Khuê, nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.