Mục lục bài viết
- 1. Bị cáo có được kháng cáo không ?
- 2. Chủ thể có quyền kháng cáo bản án là bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ
- 3. Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, bị hại và đại diện hợp pháp của họ
- 4. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ
- 5. Một số bất cập về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
1. Bị cáo có được kháng cáo không ?
Thưa luật sư, xin hỏi: Ông Nguyễn Văn X hàng ngày đi làm ruộng và trở về nhà sau 6 giờ tối khi trời đã nhá nhem tối. Sáng hôm sau ông có cầm cái cuốc vẫn làm việc bình thường. Đang làm việc thì có các anh công an đến và ra lệnh bắt giữ ông X. Ở cơ quan công an ông biết tin là ông Y em trai của ông X đã chết vào tối qua . Trước đó ông X và Y có tranh chấp và đánh nhau về mảnh đất thờ cúng mà bố mẹ để lại cho 2 anh em, nên ông X là nghi can đầu tiên. Sau những lời khai của ông X hoàn toàn trùng khớp với tình tiết của vụ án thì cơ quan điều tra cơ quan công an đưa ra kết luận ông X chính là thủ phạm và đưa ra xét xử sơ thẩm. Không đồng ý ông X đã kháng cáo yêu cầu điều tra lại . Vậy trong trường hợp này ông X có quyền kháng cáo không ? Người giết ông Y thực ra là ông Z vì ông Y đã thiếu nợ ông Z nhiều thnág nay vậy nên ông Z đã lập kế hoạch giết ông Y. Vậy ông X có được trả tự do ?
Luật sư trả lời :
Căn cứ theo khoản 1 điều 331 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :
Điều 331. Người có quyền kháng cáo
1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
Quy định về trả tự do cho bị cáo như sau :
Điều 328. Trả tự do cho bị cáo
Trong các trường hợp sau đây, Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác:
1. Bị cáo không có tội;
2. Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;
3. Bị cáo bị xử phạt bằng hình phạt không phải là hình phạt tù;
4. Bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo;
5. Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam.
>>Tham khảo: Mẫu đơn kháng cáo vụ án hình sự, dân sự
2. Chủ thể có quyền kháng cáo bản án là bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ
Bị cáo là đối tượng của việc buộc tội trong hình sự, họ có thể phải chịu hình phạt và bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra bằng một bản án, quyết định của Tòa án hoặc có thể được tuyên vô tội và được trả tự do ngay. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền kháng cáo. Quyền kháng cáo được pháp luật tố tụng quy định cho chính bản thân bị cáo. Người đại diện hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất, tâm thần có thể là cha, mẹ, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2005/ NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 thì: chỉ người đại diện theo pháp luật của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Như vậy, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo đối với mọi bản án, quyết định sơ thẩm. Nếu bị cáo là người chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì họ còng cã quyền tự mình kháng cáo, đồng thời, người đại diện hợp pháp và người bào chữa của họ có quyền kháng cáo trong các trường hợp này để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo mà không cần có sự đồng ý hay yêu cầu của bị cáo, đây là quyền kháng cáo độc lập, không phụ thuộc vào yêu cầu của bị cáo. Bị cáo và người đại điện hợp pháp có quyền kháng cáo đối với toàn bộ bản án: về tội danh, điều khoản BLHS, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí, bồi thường thiệt hại… và các quyết định sơ thẩm: quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh.
Để khôi phục hoàn toàn danh dù cho mình, người được Tòa án tuyên là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm tuyên bị họ không có tội.
>> Xem thêm: Thời hạn kháng cáo quá hạn theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là bao lâu?
3. Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, bị hại và đại diện hợp pháp của họ
Người bào chữa
Để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi cho bị cáo là người bị hạn chế về năng lực hành vi tố tụng, Luật TTHS Việt Nam quy định người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Đây là quyền kháng cáo độc lập của người bào chữa, không phụ thuộc bị cáo có đồng ý hay không. Việc người bào chữa kháng cáo không loại trừ quyền tự bào chữa của bị cáo.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự chưa thành niên, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Đây cũng là quyền độc lập của người bảo vệ quyền lợi của đương sự, không phụ thuộc đương sự có đồng ý hay không.
Người bị hại và đại diện hợp pháp của họ
Quyền kháng cáo của người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ được quy định tại Điều 231 “người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Như vậy, nếu người bị hại là người đã thành niên và không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì họ phải tự mình thực hiện quyền kháng cáo. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt cũng như bồi thường thiệt hại. Riêng về bồi thường thiệt hại,
Nghị quyết số 05/2005/ NQ - HĐTP có hướng dẫn “Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại thì họ có thể ủy quyền cho người khác. Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự”.
Trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại (ví dụ: cha, mẹ, vợ và con thành niên của người bị hại) thì phân biệt như sau:
Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm những người này đã đồng ý cử một người trong số họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại thì sau khi xét xử sơ thẩm những người này vẫn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Việc kháng cáo có thể do từng người thực hiện hoặc có thể cử một người trong số họ thay mặt họ thực hiện.
Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, những người này chưa cử ai trong số họ thay mặt họ làm người đại diện hợp pháp của người bị hại, mà người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ do một hoặc một số người trong số họ tự nhận, nếu sau khi xét xử sơ thẩm có người trong số những người chưa cử người đại diện có đơn với nội dung khiếu nại bản án sơ thẩm hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm mà nội dung đơn của họ phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng thì Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận để xét xử theo thủ tục chung. Nếu nội dung đơn của họ không phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng hoặc người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng không kháng cáo nhưng trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị thì khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hoặc quyết định sơ thẩm về phần có liên quan mà họ có khiếu nại hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm vụ án, để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (chưa đưa họ vào tham gia tố tụng khi quyền, lợi ích của họ xung đột với quyền và lợi ích của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng).
Người bị hại có quyền kháng cáo cả theo hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với bản án sơ thẩm: về tội danh, điều khoản của BLHS, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về bồi thường thiệt hại, về quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án...
>> Xem thêm: Thủ tục và hình thức kháng cáo, kháng nghị vụ án hình sự?
4. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Do nguyên đơn, bị đơn dân sự tham gia vụ án để giải quyết vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự, vì vậy quyền kháng cáo của họ chỉ hạn chế trong phạm vi những phần bản án, quyết định liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Nếu nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Ngoài ra, BLTTHS năm cũ đã có quy định mới về việc kháng cáo đối với đương sự là người chưa thành niên: đối với những người này, người bảo vệ quyền lợi cho họ có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người mà quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Họ có thể là người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
>> Xem thêm: Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự?
5. Một số bất cập về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
Điều 331 BLTTHS 2015 quy định về những chủ thể có quyền kháng cáo:
“1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
2.Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa....
6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội".
Thứ nhất, bị cáo và người đại diện có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm. Bị cáo là chủ thể bị buộc tội phải chấp hành hình phạt và chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng này, pháp luật đã quy định quyền kháng cáo và phạm vi kháng cáo rất rộng cho bị cáo và người đại diện của họ. Tuy nhiên, Theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 12 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định chỉ có người đại diện theo pháp luật của bị cáo mới có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm. Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật Dân sự và quyền kháng cáo của người đại diện là quyền kháng cáo độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo.
Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định họ không có tội. Đây là quyền của bị cáo được Tòa án tuyên không có tội thực hiện nhằm khôi phục lại danh dự chứng minh cho sự trong sạch của mình. Ví dụ: Nguyễn Văn A được Tòa án tuyên không có tội do hành vi của Nguyễn Văn A không cấu thành tội phạm. Tức là Tòa án vẫn nhận định A có thực hiện hành vi nhưng còn thiếu các yếu tố cấu thành tội phạm hành vi của A được xem là không có tội.Tuy nhiên, A cho rằng mình không thực hiện hành vi phạm tội nên kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại chứng minh cho sự trong sạch của mình.
Về quy định này còn bộc lộ một số bất cập. Đó là trong trường hợp, A chỉ được kháng cáo phần căn cứ mà Tòa án tuyên họ không có tội mà không có quyền kháng cáo các phần khác của bản án sơ thẩm là chưa bảo vệ được tối đa quyền lợi cho người bị buộc tội. Ví dụ A bị VKS truy tố về tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại Điều 178 BLHS 2015, tuy nhiên HĐXX sơ thẩm nhận thấy hành vi của A không cấu thành tội phạm do giá trị tài sản mà A hủy hoại của người khác chưa đến mức cấu thành tội phạm và tuyên A không phạm tội và buộc A phải bồi thường phần tài sản bị hủy hoại. Tuy nhiên, A cho rằng mình không có hành vi phạm tội và tất nhiên là không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì A không có quyền kháng cáo phần bồi thường thiệt hại mà chỉ có quyền kháng cáo phần căn cứ mà Tòa án tuyên A không có tội là chưa bảo đảm quyền kháng cáo và bảo vệ tối đa quyền lợi của người bị buộc tội.
Thứ hai, về quyền kháng cáo của người bào chữa. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. Đây là quyền kháng cáo độc lập không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo và người đại diện. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Hơn nữa những đối tượng này là những đối tượng chưa rõ các quy định của pháp luật nên khó có thể phát hiện ra các sai sót trong bản án sơ thẩm để thực hiện quyền kháng cáo của mình. Tuy nhiên, nếu người bào chữa của bị cáo độc lập thực hiện quyền kháng cáo và kháng cáo của người bào chữa không được chấp nhận thì nghĩa vụ chịu án phí lại không thuộc về người bào chữa theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Theo quy định này thì người bào chữa của bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thuộc đối tượng không phải nộp tiền tạm ứng án phí, không phải chịu án phí.
Như chúng ta đã biết kháng cáo, kháng nghị là cơ sở để phát sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm. Và cũng chính vì có kháng cáo, kháng nghị mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoạt động để giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Nếu như kháng cáo, kháng nghị không được chấp nhận thì những chủ thể kháng cáo, kháng nghị phải chịu án phí mới phù hợp. Tuy nhiên, theo Điều 23 của Nghị quyết 326 thì trường hợp này bị cáo phải chịu án phí theo tác giả là chưa hợp lý.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Một là: hiện nay BLTTHS 2015 đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa có văn bản hướng dẫn về phần xét xử phúc thẩm nên các cơ quan áp dụng pháp luật vẫn áp dụng tinh thần của Nghị quyết 05/2005 hướng dẫn phần xét xử phúc thẩm cho BLTTHS cũ. Mặt khác giữa Nghị quyết 05/2005 và BLTTHS 2015 vẫn có quy định chưa thống nhất về chủ thể có quyền kháng cáo cũng như phạm vi kháng cáo dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan áp dụng pháp luật cũng như làm cho những chủ thể có quyền kháng cáo không nắm chắc được quy định của pháp luật về phạm vi kháng cáo của họ.
Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 6 Điều 331 BLTTHS 2015 theo hướng bổ sung quyền kháng cáo cho người bị Tòa án tuyên không có tội ngoài kháng cáo phần căn cứ tuyên là không có tội thì nên bổ sung cho chủ thể này kháng cáo những phần khác của bản án liên quan đến họ
Theo tác giả nên sửa lại khoản 6 Điều 331 BLTTHS 2015 theo hướng như sau:
“Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội và những phần khác của bản án liên quan đến họ”.
Và nên có văn bản giải thích phần bản án liên quan đến những chủ thể này bao gồm: Phần bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng...
Thứ ba, sửa đổi Điều 11 và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội theo hướng nghĩa vụ chịu án phí phúc thẩm trong trường hợp Tòa án không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị thuộc về những chủ thể đã kháng cáo, kháng nghị độc lập.
>> Xem thêm: Hình thức kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự?