1. Nguyên tắc Paris là gì?

Nguyên tắc Paris là bộ nguyên tắc về Thiết chế Nhân quyền Quốc gia, được thông qua tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1993. Thiết chế nhân quyền quốc gia có thể tồn tại ở nhiều dạng cơ quan khác nhau, như Ủy ban Nhân quyền quốc gia, Ombudsman, hay các Viện có chức năng rộng.

Nguyên tắc Paris yêu cầu một Cơ quan Nhân quyền Quốc gia phải có đầy đủ hai chức năng:

  • Bảo vệ nhân quyền: bao gồm việc tiếp nhận, điều tra và giải quyết các khiếu nại, hòa giải mâu thuẫn và có các hoạt động giám sát nhân quyền; và
  • Thúc đẩy nhân quyền, thông qua giáo dục, phổ biến, truyền thông, xuất bản, đào tạo và xây dựng năng lực, cũng như tư vấn và hỗ trợ cho Chính phủ trong việc thực thi các nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và hỗ trợ người dân thực thi nhân quyền.

Nguyên tắc Paris là cơ sở để Liên minh Toàn cầu của các cơ quan nhân quyền quốc gia (GANHRI) - trước kia Ủy ban quốc tế điều phối các cơ quan nhân quyền quốc gia (ICC) - đánh giá và công nhận các cơ quan nhân quyền quốc gia. Một Cơ quan Nhân quyền Quốc gia được Tiểu ban Công nhận của GANHRI đánh giá là tuân thủ đầy đủ Nguyên tắc Paris thì được công nhận là "trạng thái A". Cơ quan Nhân quyền Quốc gia trạng thái A có tư cách bỏ phiếu tại GANHRI và tham gia các đối thoại tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc và các cơ chế liên quan cũng như các đối thoại và hợp tác quốc tế ở khu vực.

Bên cạnh Nguyên tắc Paris, một số Ủy ban Công ước Nhân quyền (giám sát việc thực thi các Công ước Nhân quyền) cũng có hướng dẫn về vai trò và trách nhiệm của cơ quan nhân quyền quốc gia trong việc thực hiện các công ước tương ứng, chẳng hạn như Bình luận chung số 10 (1998) của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Bình luận chung số 02 (2002) của Ủy ban Quyền Trẻ em về Cơ chế giám sát quyền trẻ em độc lập.

2. Nội dung của các nguyên tắc Paris

Các nguyên tắc Paris được thông qua trong một hội nghị do Liên hợp quốc (LHQ) tổ chức tại Paris (Pháp) vào tháng 9/1991 với sự tham gia của đại diện các cơ quan nhân quyền của nhiều quốc gia, thông qua đó sẽ thiết lập những tiêu chuẩn tối thiểu cho việc thành lập và hoạt động của các NHRIs. Trên cơ sở mong muốn đó, họ đã soạn thảo, đàm phán và thông qua các Nguyên tắc Paris.

Các nguyên tắc Paris đã nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng rộng rãi trong hệ thống nhân quyền LHQ. Vào năm 1992, văn kiện này được Ủy ban nhân quyền LHQ thông qua. Vào tháng 6/1993, Hội nghị thế giới về nhân quyền tại Vienna (Áo) đã đưa vào tuyên bố của Hội nghị một nội dung khuyến khích các nước thành lập các NHRIs mới tuân thủ theo các nguyên tắc Paris.

Tháng 12/1993, Các nguyên tắc Paris được cơ quan cao nhất của LHQ là Đại hội đồng chính thức thông qua, xem đó là văn kiện của LHQ. Từ đó, LHQ luôn khuyến khích các nước thành lập hoặc hoàn thiện NHRIs tuân thủ theo các nguyên tắc Paris.

Sự khuyến khích này được thể hiện trong một loạt nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền và Đại hội đồng LHQ, cũng như trong các khuyến nghị đưa ra qua những lần rà soát định kỳ phổ quát (UPR) về nhân quyền trên phạm vi toàn cầu, và các khuyến nghị khi xem xét báo cáo quốc gia của các cơ quan giám sát các điều ước quốc tế về nhân quyền, và cả trong các báo cáo được thực hiện thông qua các thủ tục khiếu nại đặc biệt về nhân quyền của LHQ.

Ngoài tính độc lập, Nguyên tắc Paris cũng đưa ra các yêu cầu cơ bản khác đối với NHRIs.

Thứ nhất, tính đa dạng về thành phần. Các thành viên của NHRIs phải có tính đa dạng, tức là được bầu hay bổ nhiệm từ nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau, bao gồm cả từ khối công quyền và khối tổ chức xã hội, cơ sở học thuật…

Nói cách khác, thành phần của các NHRIs phải phản ánh "các lực lượng xã hội tham gia vào việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người”…

Thứ hai, quyền hạn và chức năng rộng rãi. NHRIs cần phải được giao quyền hạn, chức năng càng rộng rãi càng tốt, trong đó có quyền hạn, chức năng tư vấn, giám sát, giáo dục và kể cả tiếp nhận và xử lý các khiếu nại về những vi phạm nhân quyền.

Thứ ba, có đủ quyền lực và nguồn lực cho hoạt động. NHRIs có thể được giao điều tra và thẩm vấn, thu thập bằng chứng và tài liệu mà họ cần. Để thực hiện được những công việc đó, các NHRIs phải được cung cấp đủ nguồn lực tài chính, biên chế, cơ sở hạ tầng và năng lực thể chế khác.

Thứ tư, có sự hợp tác rộng rãi. Do nhân quyền là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, cho nên để NHRIs hoạt động hiệu quả, cần phải tạo cơ chế hợp tác rộng rãi giữa các cơ quan này với các cơ quan nhà nước và tổ chức ngoài nhà nước khác. Không chỉ vậy, cần bảo đảm để NHRIs có thể tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế, qua đó đóng góp kiến thức và chuyên môn của họ cho các thể chế và cơ chế nhân quyền quốc tế và khu vực.

Thứ năm, dễ tiếp cận. Các nguyên tắc Paris đòi hỏi NHRIs phải dễ dàng tiếp cận đối với tất cả mọi người trong quốc gia đó, đặc biệt những cá nhân và nhóm người có nguy cơ dễ bị tổn thương về quyền con người.

Thứ sáu, trách nhiệm giải trình. Mặc dù có tính độc lập, các NHRIs cũng phải có trách nhiệm giải trình về tổ chức và hoạt động của mình với cộng đồng. Các NHRIs cũng có trách nhiệm giải trình về mặt pháp lý – ví dụ như phải chịu sự giám sát và báo cáo thường niên trước Quốc hội hay Chính phủ, về các hoạt động và kết quả đạt được trong hoạt động.

3. Những lợi ích khi tuân thủ Nguyên tắc Paris

Việc tuân thủ toàn diện các nguyên tắc Paris là rất cần thiết, trước hết là để các cơ quan nhà được thừa nhận bởi cộng đồng quốc tế và người dân trong nước, sau đó là để đảm bảo các NHRIs hoạt động khả thi và hiệu quả. Thực tế cho thấy việc tuân thủ các nguyên tắc Paris giúp cho các NHRIs hoạt động độc lập và chuyên nghiệp trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Nó mang lại cho các NHRIs sự hợp pháp, sự tin cậy đối với quốc gia cũng như trên trường quốc tế.

Các nguyên tắc Paris đưa ra một cơ sở thống nhất để đánh giá tính độc lập và hiệu quả của các NHRIs. Chúng hiện được Liên minh toàn cầu các NHRIs sử dụng, thông qua tiểu ban công nhận để đánh giá mức độ quốc tế công nhận của các NHRIs.

Cụ thể, các NHRIs được đánh giá là tuân thủ đầy đủ các Nguyên tắc Paris được công nhận là 'trạng thái A', trong khi các NHRIs tuân thủ một phần được công nhận là 'trạng thái B'. Các NHRIs ở trạng thái A có thể độc lập tham gia công việc của Hội đồng Nhân quyền LHQ và cơ chế của Hội đồng. Một số cơ quan khác của Đại hội đồng LHQ cũng cho phép các NHRIs ở trạng thái A tham gia vào các hoạt động của họ.

Các Nguyên tắc Paris là một văn kiện đặc biệt, được xây dựng dựa trên nhu cầu và cơ bản là từ chính đề xuất của các NHRIs. Văn kiện này đã tiêu chuẩn hoá, quốc tế hoá cách thức thành lập và các quy tắc tổ chức, hoạt động của các NHRIs.

Hiện nay, các Nguyên tắc Paris là nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của NHRIs ở mọi quốc gia trên thế giới. Đây là văn kiện mà các quốc gia không thể không tham chiếu khi xây dựng hoặc củng cố các NHRIs của nước mình.

Ở Việt Nam, việc xây dựng NHRIs đang là một yêu cầu cấp thiết, vì thế cần nghiên cứu phân tích kỹ các tiêu chuẩn được nêu trong Các Nguyên tắc Paris. Trước đây và hiện nay ở nước ta vẫn còn một số băn khoăn về tính độc lập của NHRIs trong các Nguyên tắc Paris.

Mặc dù vậy, phân tích kỹ nội dung của văn kiện này, có thể thấy tính độc lập đó chỉ là để phòng ngừa sự can thiệp tuỳ tiện của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội vào hoạt động của NHRIs. Tính độc lập hoàn toàn không có nghĩa NHRIs sẽ trở thành một tổ chức đối lập với nhà nước, không chịu sự quản lý hay không có trách nhiệm giải trình gì với nhà nước.

Vì vậy, khi xây dựng NHRIs, Việt Nam hoàn toàn có thể và nên có các quy định để bảo đảm tính độc lập của nó phù hợp với Các nguyên tắc Paris. Điều này trước hết là để bảo đảm hiệu quả của NHRIs trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở nước ta trong thời gian tới. Thêm vào đó, việc xây dựng NHRIs có tính độc lập sẽ góp phần tạo lập sự tin tưởng của người dân, các tổ chức xã hội trong nước, và cộng đồng quốc tế với cam kết và hành động trên lĩnh vực nhân quyền của Nhà nước Việt Nam.

4. Đánh giá và xếp hạng cơ quan nhân quyền quốc gia của GANHRI theo Nguyên tắc Paris

Bên cạnh việc đánh giá các khía cạnh nêu trực tiếp trong Nguyên tắc Paris, khi đánh giá một cơ quan nhân quyền quốc gia tuân thủ Nguyên tắc Paris đến mức nào, GANHRI còn đánh giá thêm hai khía cạnh cụ thể: Tự chủ về tài chính và nguồn lực, và việc thể hiện tính độc lập trong hoạt động.

Tính tự chủ về tài chính và cơ sở vật chất

Tính tự chủ về tài chính và nguồn lực được xem xét ở các khía cạnh: Cơ quan nhân quyền quốc gia có nguồn ngân sách ổn định, rõ ràng từ ngân sách nhà nước không; có cơ sở vật chất (trụ sở và hệ thống thông tin) mà tất cả các nhóm xã hội có thể tiếp cận được (về mặt vật chất, khoảng cách và kỹ thuật) không, có đủ ngân sách để trả lương nhân viên tương xứng không, có đủ ngân sách để thực hiện các hoạt động trong phạm vi chức năng không. Nếu tiếp nhận hỗ trợ tài chính từ cộng đồng quốc tế thì việc tiếp nhận này có mang tính tự chủ cao không hay phải có sự phê duyệt từ cấp cao hơn. Ngoài ra GANHRI cũng xem xét tính trách nhiệm giải trình trong việc quản lý ngân sách của cơ quan nhân quyền quốc gia.

Việc thể hiện tính độc lập trong hoạt động

Các khía cạnh được xem xét ở phần này bao gồm liệu cơ quan nhân quyền quốc gia được đánh giá có sẵn sàng đề cập đến tất cả các vấn đề nhân quyền, có một hệ thống theo dõi sát sao việc thực thi các khuyến nghị đã đưa ra, có hệ thống báo cáo và tài liệu công khai và thể hiện việc theo sát các vấn đề và yêu cầu của công chúng, và đặc biệt trong trường hợp có những thay đổi hoặc bất ổn về chính trị thì có thể giữ được vị trí và cách hoạt động độc lập của mình không.

GANHRI thực hiện việc đánh giá mỗi 5 năm một lần, xuất phát từ yêu cầu của cơ quan nhân quyền quốc gia. Một báo cáo đánh giá sẽ được công bố trong đó nêu cụ thể các khuyến nghị của Nhóm đánh giá để cải thiện tính hiệu quả và tính tuân thủ Nguyên tắc Paris của tổ chức.

5. Cơ chế Liên Hợp Quốc

Cơ chế bảo đảm quốc tế về QCN là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực, nguyên tắc ràng buộc pháp lý quốc tế về QCN cùng với những chế tài (như Hội đồng Nhân quyền, Uỷ ban Công ước, thủ tục, toà án,..) điều chỉnh hành vi của các quốc gia thành viên trong việc tôn trọng và thực thi các cam kết đối với các QCN. Cơ chế quốc tế này bao gồm: Cơ chế theo Hiến chương; cơ chế theo Ủy ban Công ước; cơ chế theo thủ tục đặc biệt.

5.1. Cơ chế theo Hiến chương LHQ

Được thành lập dựa vào chức năng các cơ quan chuyên môn của LHQ. Cơ chế này bao gồm Hội đồng Nhân quyền (ra đời từ năm 2006 thay thế cho Ủy ban Nhân quyền - UBNQ - được thành lập từ năm 1946) và các thủ tục đặc biệt. Theo Nghị quyết số 60/251 về việc thành lập Kiểm điểm định kỳ toàn cầu (Universal Periodic Review) đối với tình hình thực hiện QCN của các quốc gia thành viên. Tháng 3 vừa qua Chính phủ Việt Nam đã bảo vệ thành công kết quả thực hiện QCN theo cơ chế này. 

5.2. Cơ chế theo các Uỷ ban Công ước

Đây là cơ chế giám sát việc thực hiện QCN của các quốc gia thành viên thông qua các Uỷ ban của các công ước quốc tế về QCN.

Cho đến nay đã có các ủy ban công ước sau được thành lập và hoạt động: Ủy ban Loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc (CERD), 1969; Uỷ ban Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (CESCR), 1987; Uỷ ban Nhân quyền (HRC), 1977; Uỷ ban Loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), 1982; Uỷ ban Chống tra tấn (CAT), 1987; Uỷ ban Quyền trẻ em (CRC), 1990; Uỷ ban về Bảo vệ quyền của người lao động di cư và các thành viên gia đình của họ (CMW), 2004; Uỷ ban về Quyền của những người khuyết tật (CRPD),…

5.3. Cơ chế theo thủ tục đặc biệt

Cơ chế này được thành lập bởi Đại hội đồng LHQ dựa trên những cuộc họp toàn thể của Đại hội đồng và được thông qua bằng các nghị quyết ràng buộc. Chẳng hạn, đó là các nghị quyết, như Nghị quyết 728F (XXVIII), Nghị quyết 227 (X), Nghị quyết 607 (XXI), Thủ tục công khai 1235, Thủ tục kín 1503 (UBNQ được nhận/giải quyết bí mật các khiếu kiện về QCN do chính nạn nhân hay cá nhân khác, hoặc tổ chức phi chính phủ gửi đến). Cơ chế theo thủ tục (hay trình tự đặc biệt) này giúp các cá nhân của các quốc gia thành viên Công ước có thể khiếu kiện trực tiếp lên Uỷ ban Công ước về tình hình tôn trọng và thực hiện QCN ở quốc gia đó.

Bài viết tham khảo:

1. Nguyên tắc paris và các cơ chế bảo đảm nhân quyền quốc gia trên thế giới; TS. HOÀNG VĂN NGHĨA; Viện Nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Tạp chí nghiên cứu lập pháp)

2. Các nguyên tắc Paris về cơ quan nhân quyền quốc gia; PGS.TS VŨ CÔNG GIAO - NGUYỄN XUÂN SANG (Báo Thế giới & Việt Nam)