Mục lục bài viết
1. Phản biện xã hội là gì?
Phản biện xã hội là phản biện đối với hoạt động tổ chức và thực thi quyền lực chính trị, ở đó, quan hệ giữa các chủ thể - phản biện và được phản biện nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau: một bên là những thiết chế đại diện có trách nhiệm đưa ra các quyết định lãnh đạo, quản lý chung đối với xã hội, bên kia là các cá nhân công dân và các tổ chức của dân có mối liên hệ về quyền dân chủ, về quyền công dân và sự quan tâm đến lợi ích chung đã đứng ra nêu lên nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến về những vấn đề do các thiết chế thực thi quyền lực công đưa ra với mong muốn quyết định đó trở nên phù hợp hơn, khả thi hơn và đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
Hoạt động phản biện xã hội với nội dung này đã luôn hiện hữu trong các chế độ Nhà nước từ trước đến nay. Từ ngàn xưa, đó là chế độ “chiêu hiền, đãi sĩ” để tranh thủ ý kiến người hiền tài, là chế độ can gián vua chúa. Trong chế độ tư bản đó là hoạt động đảng phái đối lập, lobby, mít tinh, biểu tình. Còn trong chế độ ta, biểu hiện rõ rệt nhất là nguyên tắc đấu tranh phê và tự phê bình trong Đảng, sự xem xét, đánh giá hoạt động trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Sự phê bình không phải đơn giản chỉ là nhận xét cá nhân, phê phán cá nhân với nhau mà phải hiểu sâu xa là cả sự phản biện chủ trương, đường lối, chính sách.
2. Căn cứ tổ chức giám sát, phản biện xã hội
Căn cứ Điều 2 Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN quy định về Căn cứ tổ chức giám sát, phản biện xã hội như sau:
“Điều 2: Căn cứ tổ chức giám sát, phản biện xã hội
1. Căn cứ tổ chức giám sát:
a) Chương trình phối hợp và thống nhất hành động hằng năm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp;
b) Chương trình phối hợp giám sát giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan nhà nước cùng cấp;
c) Kiến nghị của tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
d) Đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp nhận;
đ) Thông tin phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Căn cứ tổ chức phản biện xã hội:
a) Chương trình phối hợp và thống nhất hành động hằng năm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp;
b) Chương trình, kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hằng năm; dự thảo quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (sau đây gọi chung là dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước cùng cấp có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, hội viên, đoàn viên của các tổ chức thành viên, quyền và trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
c) Kiến nghị của tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
d) Đề nghị của cơ quan nhà nước cùng cấp có dự thảo văn bản.”
3. Nguyên tắc phản biện xã hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo quy định tại Điều 32 Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam 2015 quy định về tính chất, mục đích và nguyên tắc phản biện xã hội của MTTQVN như sau:
- Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (sau đây gọi chung là dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước.
- Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội, khách quan, khoa học, xây dựng, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả của văn bản; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
- Hoạt động phản biện xã hội được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm sự tham gia của thành viên, hội viên, đoàn viên và Nhân dân; tôn trọng các ý kiến khác nhau nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh đó, tại Điều 35 Luật mặt trận tổ quốc Việt Nam 2015 quy định về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động phản biện xã hội như sau:
- Xây dựng nội dung, kế hoạch phản biện xã hội.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo gửi dự thảo văn bản và thông tin, tài liệu cần thiết.
- Thực hiện các hình thức phản biện xã hội.
- Xây dựng văn bản phản biện và gửi đến cơ quan, tổ chức có dự thảo văn bản được phản biện.
- Yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo trả lời bằng văn bản đối với kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trên đây là quy định về tính chất, mục đích và nguyên tắc phản biện xã hội của MTTQVN.
4. Trình tự tiến hành phản biện xã hội
Như mọi quy trình giải quyết, xử lý các vấn đề đặt ra, mỗi một hoạt động phản biện xã hội cũng có thể được tiến hành theo 3 giai đoạn là:
- Chuẩn bị phản biện,
- Tiến hành phản biện
- Hồi âm, ghi nhận kết quả phản biện.
Sự chuẩn bị phản biện được thực hiện bằng việc công khai hoá càng rộng càng tốt chủ trương, kế hoạch, dự án trước với một khoảng thời gian thích hợp để chủ thể phản biện có đủ thời gian tiếp cận, nghiên cứu tài liệu và tích lũy tư liệu cho sự phản biện của họ. Quá trình chuẩn bị phản biện là quá trình cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho bên phản biện. Tiến hành phản biện có thể diễn ra dưới hình thức tranh luận miệng trực tiếp với sự hiện diện của các bên. Tranh luận có thể diễn ra tại cuộc họp hay thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các cuộc phản biện đều phải được ghi lại thành biên bản và trình lên cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Xử lý kết quả phản biện xã hội
Các cơ quan, tổ chức được phản biện phải thể hiện về việc tiếp thu kết quả phản biện và trả lời bằng văn bản để chủ thể phản biện được biết. Trường hợp không tán thành với ý kiến tiếp thu giải trình có thể đặt vấn đề với cấp cao hơn. Chẳng hạn, trường hợp chủ thể phản biện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thì các cơ quan, tổ chức được phản biện phải thể hiện về việc tiếp thu kết quả phản biện và trả lời bằng văn bản để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể đã có kiến nghị phản biện xã hội được biết;giải trình hoặc đối thoại với tổ chức phản biện xã hội đã có kiến nghị phản biện khi thấy cần thiết.
5. Ý nghĩa của phản biện xã hội
Ý nghĩa của phản biện xã hội trước hết là ở sự nhận xét, đánh giá, phê phán, góp ý với bộ máy công quyền về một dự kiến, một quan điểm chưa phù hợp để đặt vấn đề xem xét lại. Sau nữa, là đưa ra các giải pháp thích ứng hơn. Dưới góc độ này, phản biện còn là một sự hiến kế, là dịp để bộc lộ nhân tài. Đây là kênh quan trọng để phát hiện và sử dụng người tài cho đất nước.
Phản biện xã hội nói lên sự phản hồi của xã hội đối với các hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội về thực chất là người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của dân góp sức với Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các chủ trương, chính sách, chuẩn bị các quyết định của về chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Mục đích chính trị của phản biện xã hội là góp phần tạo ra và bảo đảm sự đồng thuận xã hội, sự đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phản biện xã hội là một hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức trách nhiệm của dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện lòng tin của cơ quan lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước với dân, tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ hiểu biết của dân về lãnh đạo và quản lý.
“Phản biện xã hội là một hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức trách nhiệm của dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện lòng tin của cơ quan lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước với dân, tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ hiểu biết của dân về lãnh đạo và quản lý”.
Khác với đả kích, nói xấu, bôi nhọ mang tính chống đối, lật đổ, xuyên tạc sự thật, phản biện xã hội mang tính xây dựng, hỗ trợ, vì mục tiêu chung. Phản biện xã hội là hình thức tranh biện giữa những chủ thể có cùng mục đích, động cơ nhằm đạt được kết quả cao hơn, nhiều hơn, tốt hơn. Trong phản biện xã hội, bên phản biện không phải lúc nào cũng nêu ý kiến phản bác mà có cả những ý kiến tán đồng, những ý kiến sửa đổi, bổ sung nhằm làm cho dự án, kế hoạch đưa ra được đầy đủ, hoàn thiện hơn.
So với góp ý kiến, kiến nghị vốn lâu nay vẫn được tiến hành trong đời sống xã hội, phản biện xã hội tuy có những nét tương đồng, nhưng không phải đồng nhất. Góp ý kiến, kiến nghị, phê bình, phản ánh ý kiến nhân dân chủ yếu thể hiện sự tham gia thụ động của đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý với chủ thể lãnh đạo, quản lý, theo yêu cầu của họ mà không có sự chủ động, đặc biệt là không có sự tranh biện. Nội dung góp ý kiến, kiến nghị không đòi hỏi phải nêu ra đầy đủ các luận cứ khoa học để chứng minh, trong nhiều trường hợp chỉ để thể hiện nguyện vọng của bên kiến nghị, góp ý kiến, việc chấp thuận ý kiến, kiến nghị tuỳ thuộc vào sự xem xét của phía nhận được kiến nghị. Còn trong phản biện xã hội không phải chỉ nêu lên các khẳng định hay phủ định mà đòi hỏi phải có luận cứ chứng minh kèm theo. Kiến thức và trách nhiệm của bên phản biện đòi hỏi phải có sự đáp ứng cao hơn. Khi tiến hành phản biện, nhất thiết phải có sự đối thoại trực tiếp hoặc thông qua văn bản của cả hai bên biện luận và phản biện luận. Khi phản biện, bên biện luận và bên phản biện luận đều phải nêu rõ quan điểm, lập luận, căn cứ khoa học, căn cứ thực tiễn để phủ định hoặc khẳng định. Việc chấp nhận hay không chấp nhận các lập luận biện luận và phản biện luận phải nêu rõ căn cứ và lý do và thông báo công khai, rộng rãi cho mọi người biết.
Chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện cho dân thực hiện phản biện xã hội có căn cứ lý luận và thực tiễn là: phát hiện ra các mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là động lực của phát triển nói chung. Dân chủ hóa lãnh đạo và quản lý là con đường tất yếu phải đi qua để đi tới công bằng, dân chủ, văn minh. Dân chủ theo tư tưởng “dân là gốc”, “dựa vào dân” là nguồn gốc của đoàn kết toàn dân tộc, của đồng thuận xã hội, của sức mạnh Việt Nam. Phản biện xã hội (và giám sát xã hội) được thực hiện đúng đắn, có chất lượng và hiệu quả là giải pháp có tính khoa học để nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo và quản lý.
Tất cả những điều nêu trên toát lên bản chất, ý nghĩa của phản biện xã hội. Nói phản biện xã hội là nói đến thái độ, chính kiến của xã hội đối với hoạt động công quyền – nếu nhìn theo chức năng thì có vẻ như đối lập với xã hội, nhưng nhìn trong mối quan hệ biện chứng thì chúng thống nhất: hoạt động công quyền luôn luôn gắn với đời sống xã hội, phục vụ xã hội, do vậy cần phù hợp với lợi ích của xã hội. Sự giám sát, nhận xét, phê phán, đánh giá của xã hội chính là nhằm mục đích đó. Nếu cần đưa ra một định nghĩa về phản biện xã hội thì định nghĩa đó có thể như sau: Phản biện xã hội được hiểu là sự nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến khẳng định những nội dung đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, đề án, đồng thời phát hiện những điểm chưa chính xác, chưa phù hợp với đời sống xã hội và lợi ích chính đáng của nhân dân để kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung cho chính xác và phù hợp.