1. Khái quát về nhà triết học Đêmôcrít

Sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở thành Apđe (Abdère), Đêmôcrít (Démocrite, 460 - 370 TCN) sớm tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trong khu vực, am hiểu nhiều lĩnh vực khoa học. Là đại biểu kiệt xuất nhất của chủ nghĩa duy vật và tầng lớp chủ nô dân chủ thời cổ Hi Lạp, là học trò nổi tiếng của Lơxíp , Đêmôcrít đã xây dựng trường phái nguyên tử luận mà nội dung lý luận bao gồm các bộ phận sau:

 

2. Thuyết nguyên tử của Đêmôcrít

Theo ông, vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không.

Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy, không phân chia được, không biến đổi, luôn vận động và tồn tại vĩnh viễn. Nguyên tử giống nhau về chất nhưng khác nhau về hình dạng (hình cầu, hình móc câu, hình tứ diện, hình lõm...), về kích thước, về tư thế (nằm ngang, đứng, nghiêng). Cũng giống như sự kết hợp của các chữ cái tạo thành các từ ngữ, thì ở đây, sự kết hợp của các nguyên tử tạo thành các sự vật trong thế giới.

Chân không (không gian trống rỗng) không có kích thước và hình dáng, nhưng vô tận và duy nhất; nó là điều kiện cần thiết cho sự vận động của nguyên tử.

Trong chân không, nguyên tử vận động theo nhiều hướng, theo nhiều kiểu: lúc chúng cố kết tụ lại, lúc chúng tách rời tán rộng ra. Các nguyên tử, khi cố kết tụ lại thì sự vật được tạo thành, và khi chúng tách rời nhau ra thì sự vật biến mất. Khi chuyển động chúng sẽ va chạm vào nhau để tạo thành một cơn xoáy lốc nguyên tử. Cơn xoáy này đẩy các nguyên tử nhỏ nhẹ ra bên ngoài, còn các nguyên tử to nặng thì được quy tụ vào tâm; nhờ đó mà các tầng lớp nguyên tử cùng kiểu dáng, kích thước và trọng lượng như đất, nước, không khí, lửa... được tạo thành; và từ đây, hình thành Trái Đất, sự sống, con người cùng các thiên thể trên bầu trời, trong vũ trụ…

Theo Đêmôcrít, sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ nước bùn, chúng sống dưới nước, sau đó lên sống trên cạn và tiến hóa dần dần đưa đến sự xuất hiện con người.

Chỉ có sinh vật mới có linh hồn. Linh hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử, nhưng đó là các nguyên tử hình cầu, nhẹ, nóng và chuyển động nhanh. Linh hồn khả tử, nó sẽ rời thể xác và tan rã ra thành các nguyên tử dạng lửa khi sinh vật chết.

Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả mang tính tất nhiên tuyệt đối. Trong thế giới, mọi sự vật, hiện tượng xảy ra đều theo lẽ tất nhiên; vì vậy, bản tính thế giới là tất nhiên. Sự thiếu hiểu biết, sự bất lực trong nhận thức của con người mới sinh ra cái ngẫu nhiên; ngẫu nhiên mang tính chủ quan.

Như vậy, vạn vật trong thế giới, dù là vô sinh hay hữu sinh, đều xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hay ai đó sáng tạo ra. Thậm chí, nếu có thần thánh thì họ cũng được tạo ra từ nguyên tử và tồn tại trong chân không. Mặc dù Đêmôcrít không lý giải được nguồn gốc của vận động, không biết được linh hồn là hiện tượng tinh thần; nhưng việc ông khẳng định bản chất thế giới là vật chất - nguyên tử luôn vận động theo quy luật nhân quả; vũ trụ vật chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng tạo và không bị hủy diệt bởi các thế lực siêu nhiên... là quan niệm duy vật, vô thần dũng cảm đương thời. Đêmôcrít đã cống hiến cho khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật tư tưởng nổi tiếng về nguyên tử.

 

3. Quan niệm về nhận thức của Đêmôcrít

Đêmôcrít cho rằng, mọi nhận thức của con người đều có nội dung chân thực, nhưng mức độ rõ ràng, đầy đủ của chúng khác nhau. Ông chia nhận thức chân thực của con người ra làm hai dạng có liên hệ mật thiết với nhau là nhận thức mờ tối do giác quan mang lại, tức nhận thức cảm tính, và nhận thức sáng suốt do suy đoán đem đến, tức nhận thức lý tính. Nhận thức mờ tối chỉ cho ta biết được dáng vẻ bề ngoài của sự vật. Muốn khám phá ra bản chất của sự vật cần phải tiến hành nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính đáng tin cậy, nhưng đó lại là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp và đòi hỏi phải có một năng lực tư duy tìm tòi khám phá của con người khao khát hiểu biết.

Như vậy, theo Đêmôcrít, nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức lý tính; muốn nắm bắt bản chất thế giới không thể không sử dụng nhận thức lý tính. Khi đề cao nhận thức lý tính, Đêmôcrít tiến hành xây dựng các phương pháp nhận thức lôgích như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ông được Arixtốt coi là nhà lôgích học đầu tiên phát biểu về nội dung lôgích học.

 

4. Quan niệm về đạo đức - xã hội của Đêmôcrít

Đêmôcrít cho rằng, đạo đức học giúp làm rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi, thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức. Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản của tâm hồn tự do. Mặc dù Đêmôcrít coi hạnh phúc hay bất hạnh, tốt hay xấu… đều phải dựa trên nghề nghiệp, nhưng ông luôn phản đối sự giàu có quá đáng, phản đối sự trục lợi bất lương, bởi vì chúng là cội nguồn dẫn tới sự bất hạnh cho con người. Ông luôn đề cao những hành động vị nghĩa cao thượng của con người, bởi vì chỉ có những hành vi đầy nghĩa khí mới làm cho con người trở thành vĩ đại.

Theo Đêmôcrít, con người lúc đầu sống theo bầy đàn, ăn lông ở lỗ nhưng do nhu cầu giao tiếp mà có tiếng nói; do nhu cầu ăn ở mà có nhà cửa, quần áo, biết chăn nuôi, săn bắn, trồng trọt...; nghĩa là, nhu cầu vật chất để tồn tại và phát triển của con người là động lực phát triển xã hội. Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít luôn xuất phát từ quan niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó cũng phải gắn liền với tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Quản lý nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con người hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng với những thành tựu đạt được, Đêmôcrít đã nâng chủ nghĩa duy vật Hi Lạp lên đỉnh cao, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh hành bấy giờ, mà sau đó là trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platông.

 

5. Học thuyết về nhận thức trong triết học Đêmôcrít

Khi xây dựng học thuyết duy vật về nhận thức, Đêmôcrít đã xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là thực thể sinh học, vừa là chủ thể nhận thức. Theo ông, với tư cách một thực thể sinh học, con người là một sinh vật được cấu thành bởi hai yếu tố - thể xác và linh hồn, và do vậy, trong con người có cả đời sống tâm lý lẫn hoạt động ý thức. Còn với tư cách chủ thể nhận thức, con người là một kết cấu phức tạp của các nguyên tử, là “một Vũ trụ thu nhỏ” (A13)(**). Rằng, “con người - đó là tất cả những gì mà chúng ta đã nhận biết được” (A14). Giải thích quan niệm này của Đêmôcrít về con người với tư cách chủ thể nhận thức,  Arixtốt cho rằng, khi Đêmôcrít nói “con người - đó là tất cả những gì mà chúng ta đã nhận biết được” thì điều đó chỉ có nghĩa là, với Đêmôcrít, mọi cái mà con người đã nhận biết được về chính bản thân mình là những cái mà con người thể hiện ra ở cái vẻ bề ngoài của họ, theo hình dạng của họ và cùng với hiểu biết đó, nhận thức của con người còn hướng tới những cái chưa rõ ràng, chưa được bộc lộ ra ở họ, ở con người(1). Với Đêmôcrít,  việc nhận thức cái đã trở nên rõ ràng là cần thiết, song cần thiết hơn vẫn là nhận thức cái còn chưa rõ ràng. Ông viết: “Con người cần phải hướng nhận thức đến cái chưa rõ ràng, chứ không phải cái tuyệt đối hiển nhiên” (A38). Khi nói rõ hơn về quan niệm này của mình, Đêmôcrít cho rằng, một khi cái bản chất vật chất của con người còn chưa được làm sáng tỏ một cách đầy đủ thì vấn đề con người nhận thức thế giới cũng chưa rõ ràng và do vậy, nhận thức cần phải hướng tới cái chưa rõ ràng ấy. Với quan niệm này, khi khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người, Đêmôcrít đã chia nhận thức của con người thành hai dạng - nhận thức mờ tối (nhận thức cảm tính, nhận thức theo “dư luận chung” - υομφ) và nhận thức chân lý (nhận thức lý tính – έτεή, nhận thức nguyên tử và chân không). Ông viết: “Nhà thông thái là thước đo của mọi cái hiện tồn. Nhờ cảm giác, ông ta trở thành thước đo của mọi sự vật cảm tính; còn nhờ lý tính, ông ta là thước đo của các sự vật lý tính” (A40).

Như vậy, nhận thức mờ tối, theo Đêmôcrít, là dạng nhận thức mà con người có được nhờ cảm giác. Con người nhận thức thế giới thông qua các cơ quan cảm giác (thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác) của họ. Đêmôcrít gọi dạng vật chất này là nhận thức theo “dư luận chung”, nhận thức đem lại cho con người những cảm giác về mùi vị, âm thanh, màu sắc, nóng - lạnh, đắng - cay,… mà theo “dư luận chung”, mọi người đều thừa nhận. Dạng nhận thức này là kết quả của sự tác động của các nguyên tử lên các giác quan của con người và do vậy, nó đem lại cho con người - những chủ thể nhận thức - sự hiểu biết chân thực về các sự vật cảm tính. Dạng nhận thức này, theo Đêmôcrít, dẫu là những tri thức chân thực về các sự vật cảm tính, song ở nó, vẫn hàm chứa những yếu tố mơ hồ, chưa sáng tỏ, bởi không phải “dư luận chung” nào cũng đều đúng, cũng đều phản ánh bản chất của các sự vật cảm tính một cách đúng đắn. “Dư luận chung” chỉ là những cảm giác bề ngoài về các sự vật cảm tính, và vì chỉ là những cảm giác bề ngoài nên khi “nếm mật, một số người cảm thấy mật ngọt, số khác lại thấy mật đắng, từ đó có thể kết luận bản thân mật không ngọt cũng không đắng” (A48). Rằng, nhận thức theo “dư luận chung” không thể đem lại cho con người “khả năng nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy những cái quá nhỏ bé” (A41). Nó không thể giúp cho con người có được những tri thức về cái bên trong, cái sâu kín, cái tinh tuý của các sự vật cảm tính và do vậy, cũng chưa thể giúp con người nhận thức được bản chất của các sự vật ấy, chưa thể đưa con người tới chân lý.

“Chân lý, - Đêmôcrít khẳng định, - bị che khuất trong cõi sâu thẳm” (A97). Do vậy, để nhận thức được cái chân lý ấy, nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín, cái tinh tuý của các sự vật cảm tính, theo ông, nhận thức của con người không thể dừng lại ở dạng nhận thức theo “dư luận chung” mà còn phải tiến xa hơn, tiến tới dạng nhận thức chân lý, nhận thức những cái vẫn còn “bị che khuất trong cõi sâu thẳm” – nhận thức nguyên tử và chân không với tư cách bản nguyên vật chất đầu tiên của Vũ trụ.

Trong học thuyết về nhận thức của Đêmôcrít, nhận thức chân lý là dạng nhận thức thông qua những phán đoán lôgíc. Song, chỉ với những phán đoán lôgíc đúng, nhận thức của con người, theo ông, mới có thể đạt đến những tri thức chân thực về bản chất của các sự vật cảm tính. Và, để có được những phán đoán lôgíc này, con người - chủ thể nhận thức - cần phải có một quá trình nghiên cứu lâu dài, sâu sắc, bởi “bất cứ nghệ thuật nào, bất cứ tri thức khoa học nào cũng đều không thể có được, nếu như không trải qua một quá trình quan sát, nghiên cứu lâu dài, sâu sắc” (A37).

Với quan niệm coi “bản nguyên của Vũ trụ là nguyên tử và chân không, mọi cái còn lại trong Vũ trụ này chỉ tồn tại trong dư luận chung” (A1), Đêmôcrít đã đi đến khẳng định rằng, chỉ có nhận thức chân lý mới giúp con người có được những tri thức chân thực về nguyên tử và chân không. Rằng, do “vị ngọt, vị cay, cái nóng, cái lạnh, màu đen, màu trắng,… chỉ tồn tại trong dư luận chung; trong hiện thực, chỉ có nguyên tử và chân không là tồn tại đích thực” (A2), nên nhận thức chân lý là nhận thức về nguyên tử và chân không, nhận thức đem lại cho con người những tri thức chân thực nhất, sâu sắc nhất về cái bản nguyên vật chất đầu tiên của thế giới, của Vũ trụ.

Mặc dù đề cao nhận thức chân lý như  vậy, coi nó là nhận thức đáng tin cậy hơn cả, song Đêmôcrít không hề tuyệt đối hoá dạng nhận thức này. Ông cho rằng, cả nhận thức chân lý lẫn nhận thức theo “dư luận chung” đều có vai trò quan trọng của nó và giữa chúng có mối liên hệ qua lại. “Khi nào loại nhận thức mờ tối không còn đủ khả năng giúp  cho con người nhận biết cái quá nhỏ bé, cũng như khi nó không còn khả năng  giúp con người có thể nghe được, ngửi được, nắm được các sự vật cảm tính bằng thính giác, vị giác, xúc giác nhưng vẫn phải đi sâu vào phân tích, nhận thức cái tinh tế hơn mà tri  giác cảm tính đã trở nên bất lực, thì khi đó, nhận thức chân lý xuất hiện và thể hiện vai trò của mình, bởi trong tư duy, nó có một cơ quan nhận thức tinh tế hơn” (A41).

Khẳng định mối liên hệ qua lại giữa nhận thức theo “dư luận chung” và nhận thức chân lý, song nội dung, những nguyên tắc cơ bản và cơ chế của mối liên hệ đó đã không được Đêmôcrít luận giải một cách rõ ràng, cụ thể. Nhiều người đã coi đó là “sự lúng túng”, là mâu thuẫn mà Đêmôcrít đã vấp phải khi luận giải mối quan hệ giữa nhận thức theo “dư luận chung” và nhận thức chân lý, khi tiếp thu và phát triển thành tựu nhận thức luận duy vật của trường phái Elê. Không chỉ thế, khi coi nhận thức chân lý là nhân thức nguyên tử và chân không, nhận thức cái bản nguyên vật chất sâu xa nhất của mọi sự vật cảm tính, của Vũ trụ, Đêmôcrít cũng “lúng túng”, mâu thuẫn khi luận giải khả năng nhận thức thế giới của con người. Nói về những nguyên nhân dẫn đến “sự lúng túng”, mâu thuẫn này ở Đêmôcrít, có người coi đó là những hạn chế của thời đại mà ông không thể vượt qua, có người lại coi đó là hạn chế do năng lực chủ quan của Đêmôcrít, khi họ khẳng định bản thân ông luôn tỏ ra nghi ngờ khả năng nhận thức chân lý của con ngươi. Luận cứ mà họ đưa ra để khẳng định quan niệm này là câu nói còn lưu giữ được của Đêmôcrít: “Trong Vũ trụ này, hoặc là không có gì chân thực, hoặc là con người không thể biết được điều chân thực ấy” (A45).

Nói về hạn chế này trong lý luận nhận thức của Đêmôcrít, ở tác phẩm Về linh hồn, nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng - Arixtốt (384-322 TCN) cho rằng, ở  Đêmôcrít, “linh  hồn và lý trí chỉ là một” và do vậy, với ông, hiện tượng cũng chính là chân lý, “cái hiện hữu đích thực và hiện tượng là hoàn toàn trùng khớp”. Còn trong tác phẩm Siêu hình học, Arixtốt đã khẳng định, khi Đêmôcrít nói trong Vũ trụ này hoặc chẳng có gì là chân lý, hoặc chân lý bị che khuất khỏi chúng ta, ông ta đã tự mâu thuẫn với chính mình trong câu nói này, bởi nếu hiện tượng là chân lý thì làm sao chân lý ấy lại có thể bị che khuất  được. Rằng, chỉ có trên cơ sở đồng nhất tư duy lý trí với sự cảm thụ cảm tính, sự cảm thụ được thừa nhận là biến đổi về chất, thì Đêmôcrít mới đi đến khẳng định rằng cái hiện hữu, như nó được cảm thụ, chính là cái hiện hữu đích thực, tất yếu và chính là do vậy, ông ta (Đêmôcrít) đã không hiểu được cái bị che khuất chỉ có thể bắt đầu tồn tại ở chỗ nào mà hiện tượng và chân lý đã tách ra khỏi nhau; rằng ông ta cũng không hiểu khi sự cảm thụ cảm tính đã có sự thay đổi về chất thì trong con người, khả năng nhận thức cũng thay đổi(2). Khẳng định hạn chế này trong học thuyết về nhận thức của Đêmôcrít và khi viện dẫn câu nói của ông về sự không  tồn tại chân lý hay là con người không có khả năng nhận thức được chân lý, Điôgien Laécxơ (nửa đầu thế kỷ thứ III), trong công trình được coi là tác phẩm duy nhất về lịch sử triết học cổ đại, về cuộc đời và học thuyết của nhiều thế hệ các nhà triết học Hy Lạp - Về cuộc đời, học thuyết và những châm ngôn của các nhà triết học nổi tiếng, đã gán cho Đêmôcrít cùng với Kxênôphan, Dênông và các nhà triết học khác thuộc trường phái Elê là những người theo chủ nghĩa hoài nghi(3). Chúng ta còn có thể tìm thấy những đánh giá tương tự  như vậy về lý luận nhận thức của Đêmôcrít ở các nhà triết học Hy Lạp khác sống cùng thời đại với Đêmôcrít và sau đó.

Thật vậy, không chỉ các nhà triết học Hy Lạp đã đưa ra những đánh giá như vậy về nhận thức luận Đêmôcrít, mà cả các nhà triết học sống ở thời đại sau ông hàng chục thế kỷ. Nhà triết học cổ điển Đức vĩ đại - Hêgen, khi nói về mâu thuẫn mà Đêmôcrít đã vấp phải trong việc lý giải mối quan hệ giữa nhận thức theo “dư luận chung” và nhận thức chân lý, giữa thế giới các sự vật cảm tính và  bản nguyên vật chất đầu tiên của nó là nguyên tử, đã khẳng định rằng, dẫu Đêmôcrít là người “diễn đạt một cách rõ rệt hơn sự khác nhau giữa những vòng khâu của tồn tại tự nó và tồn tại vì một cái khác”, song cũng chính là từ Đêmôcrít mà “cửa đã mở” cho “chủ nghĩa duy tâm xấu xa”(4). Sự gán ghép này cho thấy, như V.I.Lênin nhận xét, “Hêgen đã giải thích Đêmôcrít hoàn toàn như một người mẹ ghẻ”, bởi “nhà duy tâm không chịu đựng nổi tinh thần của chủ nghĩa duy vật”.

Ghi chú:

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.

(**). Những đoạn trích được đánh số với thứ tự như vậy mà chúng tôi dẫn ra ở đây được lấy từ “Đêmôcrít. Các đoạn trích. Bản dịch. Những nghiên cứu” (do X.Ia.Luriê - tác giả của công trình này dịch sang tiếng Nga), Lêningrát, 1970.

(1) Xem: X.Ia.Luriê. Sđd., tr. 65.

(2) Xem: Arixtốt. Các tác phẩm gồm 4 tập, t.1 Siêu hình học, ph.IV, chương 5. Nxb Tư tưởng, Mátxcơva, 1976.

(3) Xem: Điôgien Laécxơ. Về cuộc đời, học thuyết và những châm ngôn của các nhà triết học nổi tiếng, q.9.Mát xcơva, 1986, tr.72.

(4) Dẫn theo : V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981. tr.283.

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 1 (164), tháng 1 - 2005