Khách hàng: Kính thưa Luật sư Minh Khuê, Luật sư hãy phân tích giúp tôi về phạm vi điều chỉnh của các điều ước quốc tế về đầu tư theo không gian và hiệu lực của các điều ước quốc tế về đầu tư?

Cảm ơn!

Trả lời:

 

1. Phạm vi điều chỉnh của các điều ước quốc tế về đầu tư theo không gian

Các điều ước thường quy định chỉ điều chỉnh đầu tư nước ngoài được thực hiện trên phạm vi lãnh thổ của nước nhận đầu tư. Cụm từ chỉ không gian điều chỉnh của điều ước là “lãnh thổ*’ hay một số hiệp định là “khu vực đầu tư” (Hiệp định đầu tư song phương Việt Nam - Nhật Bản năm 2003).

 

2. Định nghĩa “lãnh thổ” Hiệp định đầu tư song phương Việt Nam - Hà Lan năm 1994

Cụ thể là tại Điều 13, Hiệp định đầu tư song phương Việt Nam - Hà Lan năm 1994 quy định ‘Về phía Vương quốc Hà Lan, Hiệp định này sẽ áp dụng đối với phần của Vương quốc Hà Lan ở châu Âu. Vùng Antilles và Aruba của Hà Lan...”. Phụ lục 1-A của CPTPP đưa ra định nghĩa “lãnh thổ” cho từng bên ký kết như sau:

+ Đối vối Ôxtrâylia, lãnh thổ của Ôxtrâylia:

Không bao gồm tất cả các vùng lãnh thổ bên ngoài trừ lãnh thổ của Đảo Norfolk, lãnh thổ của đảo Christmas, lãnh thổ của quần đảo Cocos (Keeling), lãnh thổ của quần đảo Ashmore và Cartier, lãnh thổ của đảo Heard và quần đảo McDonald, và lãnh thổ của Quần đảo Coral Sea và

Bao gồm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Ôxtrâylia mà Ôxtrâylia có quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán phù hợp với pháp luật quốc tế;

+ Đối vối Brunây, lãnh thổ của Brunây bao gồm vùng lãnh hải, mở rộng đến vùng trời bên trên lãnh thổ, mà Brunây có chủ quyền, và vùng biển bên ngoài lãnh hải, bao gồm đáy biển và vùng đất dưói đáy biển, mà có hoặc có thể được thiết lập theo pháp luật của Brunây là vùng đất mà Brunây thực thi quyền và quyền tài phán phù hợp với pháp luật quốc tế;

+ Đối vối Canada:

Vùng đất, vùng trời, khoảng không, vùng nội thủy và vùng lãnh hải của Canada;

Vùng đặc quyền kinh tế Canada, như được quy định bỏi pháp luật nội địa, phù hợp vối Phần V của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển ký tại Vịnh Môntêgô ngày 10/12/1982 (UNCLOS); và

Thềm lục địa của Canada, theo quy định của pháp luật trong nước, phù hợp với Phần VI của UNCLOS;

+ Đối với Chilê, vùng đất, vùng biển, và vùng trời thuộc chủ quyền của Chilê, và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà Chilê thực thi các quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với pháp luật trong nưốc và quốc tế;

+ Đối với Nhật Bản, lãnh thổ của Nhật Bản, và tất cả vùng lãnh thổ bên ngoài lãnh hải, bao gồm đáy biển và vùng đất dưới đáy biển mà Nhật Bản thực thi các quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với pháp luật quốc tế bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và các luật và quy định của Nhật Bản;

+ Đối với Malaixia, vùng lãnh thổ đất liền, vùng nội thủy và vùng lãnh hải, cũng như vùng biển bên ngoài lãnh hải được quy định hoặc có thể được quy định trong tương lai trong luật quốc gia, phù hợp với pháp luật quốc tế, là khu vực trong đó Malaixia thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán đối vối biển, đáy biển, vùng đất dưới đáy biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên;

+ Đối vối Mêxicô:

Các Bang thuộc Liên bang và các quận cấp liên bang;

Các đảo, bao gồm các đảo đá và đảo nhỏ, trong vùng biển lân cận;

Các đảo thuộc Guadalupe và Revillagigedo, nằm trong Thái Bình Dương;

Thềm lục địa và thềm ngầm của các đảo đó, các đảo nhỏ và các đảo đá;

Vùng nước của lãnh hải phù hợp với pháp luật quốc tế và các vùng nội thủy;

Khoảng không bên trên lãnh thổ quốc gia, phù hợp với pháp luật quốc tế; và

Bất kỳ vùng lãnh thổ nào bên ngoài lảnh hải của Mêxicô phù hợp với pháp luật quốc tế, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, như được sửa đổi, và pháp luật nội địa, Mêxicô có thể thực thi quyền đối với đáy biển và vùng đất dưổi đáy biển và các tài nguyên thiên nhiên;

+ Đối với Niu Dilân, lãnh thổ của Niu Dilân và vùng đặc quyền kinh tế, đáy biển và vùng đất dưới đáy biển mà Niu Dilân thực thi quyền chủ quyền đôì với tài nguyên thiên nhiên phù hợp vối pháp luật quốc tế, nhưng không bao gồm Tokelau;

+ Đối với Pêru, lãnh thổ đất liền, các đảo, các vùng biển, và khoảng không bên trên, nằm trong chủ quyền và quyền chủ quyền, quyền tài phán của Pêru, phù hợp với các điều khoản của Hiến pháp chính trị của Pêru (Constitución Política del Peru) và luật nội địa khác có liên quan và pháp luật quốc tế;

+ Đối với Xingapo, lãnh thổ đất liền, vùng nội thủy và lãnh hải, cũng như bất kỳ vùng biển nào nằm ngoài lãnh hải mà chịu sự điều chỉnh hoặc có thể trong tương lai chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia Xingapo, phù hợp với pháp luật quốc tế, được coi là lãnh thổ mà Xingapo có thể thực thi quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán đối với vùng biển, đáy biển và vùng đất dưới đáy biển và các tài nguyên thiên nhiên;

+ Đối với Việt Nam, vùng lãnh thổ đất liền, các đảo, các vùng nội thủy, lãnh hải, và vùng trời bên trên các vùng này, vùng biển phía ngoài lãnh hải gồm đáy biển, đất dưới đáy biển và các tài nguyên thiên nhiên trên đó mà Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán phù hợp với pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế.

 

3. Điều ước quốc tế về đầu tư

Nguồn của pháp luật quốc tế bao gồm điều ước quốc tế, nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế, án lệ quốc tế và học thuyết pháp lý.

Tuy nhiên, nguồn chủ yếu nhất của pháp luật quốc tế nói chung vẫn là điều ước quốc tế. Khi nghiên cứu, phân tích các điều ước quốc tế về đầu tư nhằm làm rõ thực trạng của pháp luật quốc tế về đầu tư nước ngoài và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Các điều ước này, dù có hình thức là hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hay chỉ là một chương về đầu tư trong các hiệp định kinh tế, hiệp định tự do thương mại.

Điều ước quốc tế về đầu tư là điều ước mà Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư thuộc quốc gia hoặc vùng lãnh thổ là thành viên của điều ước đó, gồm:

- Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ký ngày 07 tháng 11 năm 2006;

- Các hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư;

- Các hiệp định thương mại tự do và các thỏa thuận hội nhập kinh tế khu vực khác;

- Các điều ước quốc tế khác quy định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư.

 

4. Hiệu lực của các điều ước quốc tế về đầu tư

Khác với đại đa số các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực khác, điều ước tế về đầu tư thường quy định thời hạn có hiệu lực chỉ 10 đến 20 năm. Điều này cho thấy các nước nhận đầu tư dè dặt khi đưa ra các cam kết quốc tế về bảo hộ đầu tư. Vấn đề cách đối xử với người và tài sản của họ vốn thuộc chủ quyền quyết định của nưốc chủ nhà theo luật pháp quốc tế truyền thống, nhưng do nhu cầu của các nước nhận đầu tư thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nhu cầu của các nước đi đầu tư bảo hộ nhà đầu tư, đầu tư ở nước ngoài, các quốc gia tự ràng buộc mình bằng những nghĩa vụ trong điều ước quốc tế. Để có thể linh hoạt rút khỏi các cam kết này, các quốc gia thỏa thuận điều ước quốc tế sẽ hết hiệu lực sau 10 đến 20 năm nếu một bên ký kết thông báo ý định không muốn tiếp tục gia hạn điều ước quốc tế. Nếu không có thông báo chấm dứt, điều ước được tự động gia hạn.

Ví dụ, khoản 1 và 2 Điều 23, Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản năm 2003 quy định “Hiệp định này có hiệu lực trong vòng mười năm kể từ ngày có hiệu lực và sẽ tiếp tục có hiệu lực trừ khi chấm dứt hiệu lực”, hoặc một Bên ký kết có thể chấm dứt Hiệp định này vào cuối giai đoạn mười năm đầu hoặc bất kỳ thời điểm nào sau đó bằng cách gửi thông báo bằng văn bản trước một năm cho Bên ký kết kia.

Một quy định đặc biệt chưa từng có trong các điều ước quốc tế lĩnh vực khác nhưng lại được đưa vào trong gần ba nghìn hiệp định đầu tư song phương là các hiệp định vẫn tiếp tục áp dụng ngay cả khi đã hết hiệu lực. Theo đó, khoản đầu tư đang thực hiện ở nước nhận đầu tư sẽ được bảo hộ thêm 10 năm đến 20 năm nữa, tùy theo quy định của từng hiệp định (còn gọi là “điều khoản hoàng hôn” hay “sunset clause”). Khoản 3 Điều 23, Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản năm 2003 quy định tiếp rằng đôì với các dự án đầu tư được thực hiện trước ngày chấm dứt của Hiệp định này, “các quy định của Hiệp định này sẽ tiếp tục có hiệu lực trong vòng mười năm kể từ ngày chấm dứt Hiệp định này”. Lý do của quy định đặc biệt về kéo dài thời gian áp dụng sau khi chấm dứt hiệu lực nằm ỏ thực tế là các dự án đầu tư nước ngoài thường mang tính dài hạn hơn khoảng thời gian có hiệu lực được các bên nhất trí. Khi có quy định như vậy, nước đi đầu tư, nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn về việc các cam kết quốc tế bảo hộ mình không bị nước nhận đầu tư sớm đơn phương chấm dứt.

 

5. Bàn về quy định hiệu lực điều ước quốc tế

Quy định về hiệu lực nêu ở trên chỉ mang tính đặc thù đối với các hiệp định chuyên biệt về đầu tư. Điều khoản hiệu lực của Hiệp định EVIPA có cách tiếp cận khác ở chỗ nêu rõ EVIPA có hiệu lực vô thời hạn nhưng Việt Nam hay Liên minh châu Âu có thể chấm dứt Hiệp định bằng cách gửi thông báo cho bên kia (Điều 4.14). “Điều khoản hoàng hôn” vẫn được duy trì trong EVIPA; theo đó, ngay cả khi Hiệp định này hết hiệu lực, các đầu tư đang thực hiện vẫn tiếp tục được bảo hộ thêm 15 năm nữa (Điều 4.15).

Các hiệp định thương mại tự do điều chỉnh không chỉ đầu tư mà còn cả những lĩnh vực khác như thương mại hàng hóa, dịch vụ nhằm xác lập một sự hợp tác kinh tế toàn diện và vì thế, loại điều ước này dự liệu thời gian áp dụng lâu dài, với cơ chế tiếp tục sửa đổi, bổ sung, đàm phán lại. Các hiệp định thương mại tự do có các cam kết ở chương về đầu tư tương tự như hiệp định đầu tư song phương nhưng không đưa vào điều khoản thòi hạn có hiệu lực và gia hạn như các hiệp định đầu tư song phương. Điều khoản về hiệu lực của các hiệp định này thường chỉ quy định thời điểm bắt đầu có hiệu lực và trường hợp một bên ký kết muốn chấm dứt hay rút khỏi hiệp định (Điều 23.5, Hiệp định FTA giữa Canada và Hàn Quốc năm 2014) và không quy định tiếp tục áp dụng sau khi hết hiệu lực.

 

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).