Mục lục bài viết
- 1. Đặc điểm của quốc tịch cá nhân
- 2. Xác lập quốc tịch của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước
- 3. Hưởng quốc tịch do sinh ra
- 4. Hưởng quốc tịch theo sự gia nhập
- 5. Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn
- 6. Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch
- 7. Chấm dứt mối quan hệ quốc tịch với nhà nước
- + Do thôi quốc tịch:
- + Do bị tước quốc tịch:
- 8. Những trường hợp ngoại lệ về quốc tịch cá nhân
- + Người hai quốc tịch
- + Người không quốc tịch
Chẳng hạn, thời kỳ chiếm hữu nô lệ, chủ nô là người có đầy đủ các quyền nhà nước ban cho còn tuyệt đại đa số những người lao động là nô lệ không được coi là con người mà đơn giản chỉ là thứ "công cụ lao động biết nói" thuộc quyền sở hữu và khai thác của giai cấp chủ nồ.
Sang thời kỳ phong kiến, địa vị pháp lý dành cho người lao động được cải thiên hơn so với thời kỳ chiếm hữu nô lệ, họ được coi là "thần dân" của vua chúa phong kiến với rất ít quyền cá nhân và không được hưởng các quyền chính trị, không được tham gia vào bộ máy nhà nước.
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, chế định quốc tịch ra đời nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân của giai cấp tư bản. Chế định này thay thế cho chế định thần dân trong thời kỳ phong kiến, đánh dấu bước phát triển tiến bộ trong lịch sử loài người. Người dân được gọi là công dân với nhiều quyền lợi và nghĩa vụ kèm theo, trong đó có quyền dân sự và chính trị.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, chế định quốc tịch của luật trong nước có sự thay đổi và phát triển với nội dung mới, trong đó thừa nhận sự bình đẳng của các cá nhân với nhau trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá; bảo đảm thực hiên nguyên tắc "mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” khi giải quyết các vấn đề pháp lý về dân cư; tôn trọng, bảo vệ và phát triển quyền con người hiện đại tại từng quốc gia, phù hợp với luật quốc tế.
Trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia, quốc tịch là một chế định pháp lý, bao gồm các quy định điều chỉnh hình thức và nội dung mối quan hệ pháp luật được thiết lập giữa một cá nhân với một nhà nước.
Như vậy, từ phương diện pháp lý hiện đại, quốc tịch là mối quan hệ pháp lý hai chiều, được xác lập giữa cá nhân vói một quốc gia nhất định, có nội dung là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó và quốc gia mà họ là công dân.
1. Đặc điểm của quốc tịch cá nhân
Mối quan hệ pháp luật về quốc tịch xác lập giữa cá nhân và quốc gia có đặc điểm:
- Tất yếu được xác lập bằng những cách thức khác nhau. Đối vói từng cá nhân, đây là mối quan hê pháp luật tồn tại một cách bền vững, ổn định và ràng buộc người đó vói nhà nước mà họ là công dân về quyền và nghĩa vụ mang tính hai chiều.
- Đối với mỗi cá nhân, quốc tịch chỉ có ý nghĩa ràng buộc họ với nhà nước mà họ là công dân.
- Quốc tịch vùa mang tính quốc tế, vừa là đối tượng điều chỉnh của luật trong nước. Đặc thù này của mối quan hê quốc tịch xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân của một cá nhân khi tồn tại trong đời sống xã hội.
2. Xác lập quốc tịch của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước
Trên cơ sở chủ quyền, mỗi quốc gia có những quy định cụ thể về xác lập quốc tịch cho cá nhân là công dân của nước đó. Trong quan hệ pháp luật quốc tịch, quốc gia là chủ thể duy nhất của luật quốc tế có quyền ban cấp quốc tịch cho cá nhân, theo các nguyên tắc và quy định pháp luật của nhà nước đó. Việc quy định cụ thể các điều kiện, trình tự, thủ tục, cách thức hưởng và mất quốc tịch trước hết là công việc nội bộ của từng quốc gia. Song, các quy định về quốc tịch của quốc gia cần phù hợp với nguyên tắc của luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên.
Xác lập môì quan hệ quốc tịch có ý nghĩa pháp lý cực kỳ quan trọng đối vói từng cá nhân trong xã hội. Quốc tịch là căn cứ, dấu hiệu nói lên sự quy thuộc của một cá nhân về một nhà nước nhất định. Sự quy thuộc này đối vói cá nhân sẽ đồng nghĩa với việc người đó nhận được các quyền lợi mà nhà nước và pháp luật nước này đảm bảo cho họ được thụ hưởng, đồng thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước đó đối với việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân trong mối quan hệ vói cộng đồng dân cư của quốc gia mà họ là công dân, cũng như trong quan hệ quốc tế mà người đó tham gia nhân danh chính cá nhân họ.
Về phía nhà nước, xác lập quốc tịch có ý nghĩa thực hiện chủ quyền quốc gia đối vói dân cư, bởi về pháp lý, quốc tịch là căn cứ xác định giới hạn thẩm quyền tài phán của một quốc gia trong các mối quan hệ pháp luật quốc tế. Đằng sau các mối quan hệ giữa một cá nhận với cá nhân của quốc gia khác hoặc giữa một cá nhân vói nhà nước khác, suy đến cùng, chính là quan hệ giữa các nhà nước với nhau. Trong các quan hệ đó, ranh giới của chủ quyền giữa các quốc gia trước hết được xác định căn cứ vào yếu tố quốc tịch. Vì dù theo hình thái kinh tế-xã hội nào thì con người cũng phải gắn với điều kiện phát triển của một qúốc gia, một nhà nước cụ thể. Quyền con người của cá nhân cụ thể trong xã hội phải được thể chế hoá và bảo đảm thực hiện bằng quy định pháp luật và các thiết chế quốc gia. Có như vậy, các chuẩn mực quốc tế đối với quyền lợi của cá nhân con người mới có điều kiện để được hiện thực hoá trong đời sống.
Trên bình diện pháp luật quốc gia và quốc tế, theo truyền thống, có các quy định hiên hành sau đang được áp dụng tại các nước khi xác lập quốc tịch của cá nhân:
3. Hưởng quốc tịch do sinh ra
Đây là cách thức hưởng quốc tịch phổ biến nhất. Các quốc gia sử dụng các nguyên tắc hưởng quốc tịch do sinh ra không giống nhau, dẫn đến .các kết quả pháp lý khác nhau.
Một số quốc gia như Áo, Nauy, Afghanistan... sử dụng nguyên tắc quyền huyết thống (Jus Sanguinis) để xác định quốc tịch cho cá nhân được sinh ra. Theo nguyên tắc này, trẻ em khi sinh ra có quốc tịch theo cha mẹ, không phụ thuộc vào nơi sinh.
Các nước ở Mỹ La tinh lại áp dụng nguyên tắc quyền nơi sinh (Jus Soli) để xác định quốc tịch cho tó em, với nội dung: Trẻ em sinh ra ở nước nào sẽ có quốc tịch nước đó, không phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ.
Nguyên tắc Jus Sanguinis và Jus Soli có phương thức xác' định quốc tịch hoàn toàn khác nhau, vì vậy trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế đã dẫn đến hiện tượng trẻ em không có quốc tịch hoặc có hai quốc tịch trở lên. Để giải quyết thực tế này, các nước đã ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương nhằm mục đích hợp tác để hạn chế và loại bỏ tình ứạng người không quốc tịch hay hai quốc tịch.
Pháp luật của đa số các quốc gia trên thế giới đều quy định việc hưởng quốc tịch do sinh ra trên cơ sở áp dụng nguyên tắc hỗn họp, bao gồm sử dụng cả hai nguyên tắc Jus Sanguinis và Jus Soli theo trình tự nhất định, phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
4. Hưởng quốc tịch theo sự gia nhập
Có ba tường hợp hưởng quốc tịch theo sự gia nhập sau đây:
- Do xin vào quốc tịch;
- Do kết hôn với người nước ngoài;
- Do nhận làm con nuôi người nước ngoài.
Việc hưởng quốc tịch trong trường hợp xin vào quốc tịch dựa trên cơ sở ý chí, nguyện vọng cá nhân của người muốn xin vào quốc tịch. Yếu tố ý chí ở đây có tính chất quyết định. Vì vậy, pháp luật của các quốc gia đều đòi hỏi phải có đơn xin gia nhập quốc tịch của người có nhu cầu. Trình tự, thủ tục và các điều kiện xin nhập quốc tịch được quy định trong pháp luật có liên quan cùa quốc gia xin gia nhập quốc tịch. Nhìn chung, pháp luật các nước đều quy định các điều kiện cơ bản sau đây:
- Phải đạt độ tuổi nhất định, thường từ 18 tuổi trở lên;
- Phải có thời gian sinh sống nhất định tại nước xin nhập quốc tịch;
- Phải biết ngôn ngữ của quốc gia xin gia nhập;
- Phải có điều kiện sống đảm bảo theo quy định của quốc gia xin gia nhập quốc tịch;
- Phải có đạo đức và tư cách tốt.
Đây là những điều kiện chung có tính chất cơ bản. Ngoài ra, phụ thuộc vào bản chất chế độ, phong tục tập quán, điều kiện và trình độ phát triển của từng nước mà ừong quy định từng nước có thể có các điều kiện bổ sung thêm.
Trong trường hợp gia nhập quốc tịch do kết hôn với người nước ngoài, luật pháp các quốc gia cũng có quy định cụ thể, theo đó, người phụ nữ kết hôn vói người nước ngoài thì được mang quốc tịch của người chồng (như pháp luật của Anh, của Braxin...). Tuy nhiên, luật pháp về quốc tịch của một số quốc gia lại quy định việc kết hôn cùa người phụ nữ không làm thay đổi ipso facto quốc tịch của người phụ nữ. Trong Công ước 1957 về quốc tịch của người phụ nữ đi lấy chồng, để bảo đảm sự bình đẳng về quốc tịch, công ước quy định, người phụ nữ có địa vị pháp lý bình đẳng với nam giới trong việc giữ hoặc thay đổi quốc tịch khi kết hôn. Điều 1, Công ước quy định, mỗi quốc gia ký kết thoả thuận rằng việc kết hôn, ly hôn giữa công dân quốc gia đó với người nước ngoài, việc thay đổi quốc tịch của người chồng trong thời kỳ hôn nhân không ipso facto dẫn đêh sự thay đổi quốc tịch của người VỢ;
Vấh đề hưởng quốc tịch theo sự gia nhập cũng có thể phát sinh trong trường hợp nhận làm con nuôi người nước ngoài. Pháp luật các nước thừa nhận nguyên tắc pháp lý, trẻ em không có quốc tịch hoặc có quốc tịch nước khác, khi được người nước ngoài nhận làm con nuôi, có thể xin gia nhập quốc tịch của cha hoặc mẹ nuôi, tùy theo từng trường hợp cụ thể.
5. Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn
Lựa chọn quốc tịch là quyền của người dân được tự do lựa chọn cho mình một quốc tịch hoặc là giữ nguyên quốc tịch cũ hoặc là nhận quốc tịch của quốc gia hữu quan khác. Việc lựa chọn quốc tịch phải được thực hiện trên cơ sở hoàn toàn tự nguyên, phù hợp với nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết, bảo đảm tuyệt đối quyền lợi và tài sản của người lựa chọn quốc tịch.
Sau Chiến tranh thế giới thứ lần thứ II, vấh đề lựa chọn quốc tịch xuất hiện nhiều, do yếu tố lịch sử để lại, các vấn đề này đã được điều chỉnh trong các điều ước quốc tế hữu quan như Hiệp ước Pốtsđam, Hiệp định 1945 giữa Liên Xô (cũ) với Ba Lan, Hiệp định 1946 giữa Tiệp Khắc (cũ) với Liên Xô (cũ).
6. Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch
Phục hồi quốc tịch là hoạt động pháp lý có ý nghĩa nhằm mục đích khôi phục lại quốc tịch cho người đã mất quốc tịch đó vì các nguyên nhân khác nhau trong đời sống dân sự quốc tế. Vấn đề phục hồi quốc tịch được đặt ra đối với những ngựời ra nước ngoài sinh sống nay hổi hương về tổ quốc và đối với những người đã mất quốc tịch nước mình do kết hôn với người nước ngoài nay ly hôn và muốn trở lại quốc tịch cũ.
Trình tự, thủ tục và điều kiên hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch được quy định có nội dung đơn giản hơn và ưu tiên hơn so vói người gia nhập quốc tịch lần đầu..
Ngoài những cách thức hưởng quốc tịch phổ biến nêu trên, trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế còn có hưởng quốc tịch theo phương thức được thưởng quốc tịch. Thưởng quốc tịch là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia công nhận người nước ngoài có công lao to lớn với nước mình, vói cộng đồng nhân loại là công dân nước mình. Việc thưởng quốc tịch phải được sự đồng ý cùa người được thưởng quốc tịch. Trong thực tế, việc thưởng quốc tịch dẫn đến hai hệ quả pháp lý sau:
- Người được thưởng quốc tịch trở thành công dân thực sự của nhà nước thưởng quốc tịch với đầy đủ quyền và nghĩa vụ như công dân của nhà nước này.
- Người được thưởng quốc tịch là công dân danh dự của nhà nước thưởng quốc tịch, việc thưởng quốc tịch chỉ có giá trị và ý nghĩa tinh thần là chủ yếu.
7. Chấm dứt mối quan hệ quốc tịch với nhà nước
Mối liên hệ pháp lý bền vững và ổn định giữa công dân vói một nhà nước có thể chấm dứt trong những trường hợp nhất định, đó là:
+ Do thôi quốc tịch:
Quốc tịch ẹủa một người mất đi khi họ xin thôi quốc tịch theo ý chí và nguyện vọng cá nhân. Trong trường hợp này, đương sự phải làm đơn xin thôi quốc tịch gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyến.
Pháp luật các nước đều quy định những điều kiên chủ yếu để xin thôi quốc tịch như:
- Đã hoàn thành hoặc được miễn nghĩa vụ quân sự;
- Đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế hoặc các nghĩa vụ tài chính cho quốc gia mà họ xin thôi quốc tịch;
- Không phải thi hành các phán quyết dân sự;
- Không bị truy tố hình sự frong thời gian xin thôi quốc tịch.
Khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cho phép thôi quốc tịch, đương sự sẽ không còn là công dân của quốc gia đó nữa.
+ Do bị tước quốc tịch:
Pháp luật của các quốc gia đều quy định các trường hợp cá nhân bị tước quốc tịch. Hành vi tước quốc tịch là biện pháp trừng phạt của nhà nước, áp dụng đối với công dân nước mình, khi họ có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch. Thông thường, do phạm những tội có tính chất phản quốc hoặc có hành động không xứng đáng với danh hiệu công dân quốc gia nữa.
Ngoài hai trường hợp nêu trên, quan hệ pháp luật quốc tịch giữa cá nhân và nhà nước cũng sẽ chấm dứt khi cá nhân đó chết đi, bởi có quốc tịch là quyền nhân thân không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Trường hợp này không giống với trường hợp phải chẫm dứt mối quan hệ quốc tịch do trong pháp luật của nhiều quốc gia tồn tại những quy định mang tính chất tự động chấm dứt quốc tịch (đương nhiên mất quốc tịch) nếu cá nhân tham gia quân đội quốc gia khác, nếu xin gia nhập quốc tịch nước ngoài...
8. Những trường hợp ngoại lệ về quốc tịch cá nhân
+ Người hai quốc tịch
Hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc là công dân của cả hai quốc gia. Trong thực tiễn, những người mang hài quốc tịch là nguyên nhân gây ra trở ngại trong việc các nước thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với công dân, đồng thời người hai quốc tịch cũng không có khả năng thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ công dân của họ đối với hai quốc gia mà họ mang quốc tịch. Hai quốc tịch là tình trạng pháp lý gây khó khăn cho thực hiên chủ qụyền quốc gia đối với dân cư, thậm chí gây phức tạp cho quan hệ hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong các vấn đề về dân cư. Nguyên nhân của tình trạng này là:
- Do sự quy định khác nhau về các vấn đề quốc tịch trong pháp luật các nước;
- Do những thay đổi về điều kiện thực tế của cá nhân, ví dụ, người đã có quốc tịch mới nhưng vẫn chưa từ bỏ quốc tịch cũ;
- Do hưởng quốc tịch mói từ việc kết hôn với người nước ngoài hoặc được làm con nuôi người nước ngoài...
Trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế hiện nay, các vấn đề phát sinh từ tình trạng người hai quốc tịch thường được các quốc gia áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu hay nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc gia để giải quyết.
Cộng đồng quốc tế đã soạn thảo và ký kết các điều ước quốc tế hai bên hoặc nhiều bên để ngăn ngừa, hạn chế hoặc loại bỏ những trường hợp hai quốc tịch hoặc nhiều quốc tịch. Theo các điều ước quốc tế hữu quan, những người có hai hoặc nhiều quốc tịch có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của một trong các nước tham gia điều ước quốc tế. Trong trường hợp không lựa chọn được quốc tịch thì họ được coi là công dân của nước nơi họ cư trú thường xuyên.
+ Người không quốc tịch
Đây là tình trạng pháp lý của một cá nhân không có quốc tịch của một nước nào. Hiện tượng không quốc tịch xuất hiên trong các trường hợp sau:
- Có sự xung đột pháp luật của các nước về vấn đề quốc tịch;
- Khi một người đã mất quốc tịch cũ nhưng chưa có quốc tịch mới;
- Khi trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng riêng biệt nguyên tắc "quyền huyết thống" mà cha mẹ là người không có quốc tịch.
Địa vị pháp lý của người không quốc tịch bị hạn chế nhiều so với công dân nước sở tại và người có quốc tịch nước ngoài. Họ không được hưởng các quyền mà các bộ phận khác của dân cư được hưởng trên cơ sở điều ước quốc tế giữa các quốc gia hữu quan. Họ cũng không được hưống sự bảo hộ ngoại giao cùa bất kỳ nước nào. Để khắc phục và hạn chế tình trạng người không quốc tịch, cộng đồng quốc tế cũng đã ký kết một số điều ước quốc tế về bảo đảm cho quyền lợi của người không quốc tịch với tư cách các quyền con người cơ bản trong xã hội và đời sống quốc tế.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)