1.  Vì sao cần bảo vệ người thứ ba ngay tình?

Khi một người tham gia giao dịch mua bán hay chuyển nhượng tài sản khó có thể biết chính xác được liệu người bán hay người chuyển giao tài sản cho họ có phải là chủ sở hữu đích thực của tài sản hay không? Trên thực tế có rất nhiều giao dịch mà bên chuyển giao tài sản không phải là chủ sở hữu đích thực của tài sản đó mặc dù họ đang nắm giữ tài sản và cả giấy tờ. Thông thường sau những giao dịch như vậy, chủ sở hữu đích thực của tài sản sẽ kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu tài sản không hợp pháp. Và khi đó quyền lợi của người được cho là chiếm hữu tài sản không hợp pháp bị xâm phạm cho dù họ tham gia vào giao dịch đó một cách trung thực, thẳng thắn hoàn toàn không hề hay biết về giao dịch trước đó.

           Về nguyên tắc khi một giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên phải hoàn trả lại tài sản cho nhau như đã nhận. Nhưng tài sản trên thực tế thì luôn được luân chuyển do mình là nền kinh tế thị trường. Một giao dịch dân sự trước đó vô hiệu không có nghĩa là tài sản sẽ dừng lại ở giao dịch đó mà tài sản sẽ được chuyển giao cho người thứ ba. Như vậy bất kì ai trong xã hội cũng có thể dễ dàng trở thành người thứ ba, người chiếm hữu tài sản không hợp pháp…

           Trong thực tế đã có rất nhiều vụ việc các vụ kiện liên quan tới vấn đề này. Các tình huống tương tự trong đời sống dân sự khiến quyền và lợi ích chính đáng của một bộ phận không nhỏ người trong xã hội bị xâm phạm đến gây mất trật tự an toàn xã hội…PLDS Việt Nam nhận thấy đây là một vấn đề cần được pháp luật bảo vệ và pl đã đặt ra các quy định bảo vệ quyền lợi của nhóm người này. Và các tình huống dân sự liên quan đến vấn đề này ngày càng phức tạp hơn dẫn tới PLDS điều chỉnh các quy định cho tiến bộ và phù hợp hơn để bảo vệ được tối đa quyền lợi của nhóm người này nhưng cũng không xâm phạm đến quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội.  Bởi lẽ đó mà chế định bảo vệ này ra đời.

    2. Thế nào là người thứ ba ngay tình?

Pháp luật Việt Nam không đưa định nghĩa về “người thứ ba ngay tình” mà chỉ đưa ra định nghĩa: “Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình”, đó là “người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật”. Nhưng khi sửa đổi BLDS năm 2015 thì định nghĩa này đã được bỏ đi và thay vào đó là định nghĩa về “Chiếm hữu ngay tình”. Theo Điều 180 BLDS 2015, chiếm hữu ngay tình là “việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Như vậy hiểu một cách chung nhất, người thứ ba ngay tình là người chiếm hữu tài sản nhưng không biết hoặc không thể biết rằng việc chiếm hữu tài sản của mình là không có căn cứ pháp luật. Họ không biết rằng họ đang thực hiện giao dịch với một người không có quyền định đoạt đối với tài sản đang được giao dịch.

         

    3. Căn cứ để xác định người thứ ba ngay tình.

Vậy có phải ai theo cách hiểu trên cũng là người thứ ba ngay tình hay không và làm thế nào để phân biệt giữa ngừoi thứ ba ngay tình và người không phải là người thứ ba ngay tình?

PLDS Việt Nam đã đưa ra những căn cứ để xác định một người là người thứ ba ngay tình

- Thứ nhất, người thứ ba tham gia vào một giao dịch dân sự thì đã có một giao dịch dân sự khác được thực hiện với cùng một đối tượng giao dịch nhưng giao dịch dân sự này bị vô hiệu.

- Thứ hai, người thứ ba tham gia vào giao dịch hoàn toàn là ngay tình tức hoàn toàn tin tưởng vào người giao dịch với mình và không biết gì về giao dịch dân sự vô hiệu trước đó.

Căn cứ này tránh những người lợi dụng quy định này cố tình trở thành người thứ ba ngay tình để nhằm mục đích làm lợi cho bản thân. Nếu người này tham gia ciao dịch không ngay tình thì PL nhận định rằng có cần thiết phải bảo vệ họ hay không.

- Thứ ba, tài sản được chuyển ciao phải là tài sản được phép lưu thong, những tài sản không được phép lưu thông như súng, pháo, hàng lậu, hàng trốn thuế. PL nhận ra rằng nếu chỉ vì bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình mà xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác và gây mất trật tự an toàn xã hội gây nguy hiểm cho xã hội thì có cần thiết phải bảo vệ họ hay không.

- Thứ tư, giao dịch với người thứ ba phải là giao dịch có sự đền bù. Đây là một khái niệm rất mới trong BLDS, một người nhận được tài sản dựa trên cơ sở là người đó đổi quyền lợi, tài sản tương ứng. Quyền lợi của người thứ ba phải được đặt song song với quyền lợi của chủ sở hữu.

4. Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong BLDS. 

Bộ Luật Dân sự 2015:

Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong quan hệ dân sự là một nội dung nhận được khá nhiều sự chú ý. BLDS 2015 sửa đổi với hy vọng sẽ tạo được một hành lang pháp lý hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình một cách công bằng và thích đáng.

 Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

“1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.

2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.”

   Điều luật trên quy định 3 trường hợp xử lí tương ứng với các khoản 1, 2 và 3 của Điều luật. 

Theo quy định tại khoản 1, điều 133 BLDS 2015.

Như vậy, giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch bị tuyên vô hiệu này là tài sản không phải đăng kí quyền sở hữ đã chuyển giao cho người thứ 3 ngay tình thông qua một giao dịch thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực.

Lợi ích của người thứ 3 không được bảo vệ và người thứ 3 phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu trong 2 trường hợp sau:

  - Trường hợp 1: Giao dịch dân sự với người thứ 3 không có hiệu lực cho dù đối tượng của giao dịch là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu và người thứ 3 là người ngay tình có được động sản này thong qua hợp đồng không có đền bù, nhưng chủ thể của giao dịch không có quyền định đoạt tài sản, thì người thứ ba phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu; trường hợp này giao dịch với người thứ 3 không có hiệu lực.

    - Trường hợp 2: Giao dịch dân sự với người thứ 3 không có hiệu lực trong trường hợp người này có được tài sản là động sản thong qua hợp đồng có đền bù, nhưng động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

Theo quy định tại khoản 2, điều 133 BLDS 2015:

Trường hợp tài sản phải đăng kí mà chưa được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ 3 bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ 3 ngay tình nhận tài sản thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Theo quy định tại khoản 2, điều 133 BLDS, lợi ích của người thứ 3 được bảo vệ trong các trường hợp sau:

 - Trường hợp 1: Giao dịch bị tuyên vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó tài sản này được chuyển giao cho người thứ 3 bằng 1 giao dịch khác, và người thứ 3 căn cứ vào việc tài sản đã được đăng kí mà xác lập giao dịch, thì giao dịch với người thứ 3 không bị vô hiệu.

- Trường hợp 2: Giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu mà giao dịch có đối trọng là tài sản phải đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng chưa được đăng kí, thì giao dịch với người thứ 3 có đối tượng là tài sản này vô hiệu. Trong trường hợp này, quyền lợi của người thứ 3 không được bảo vệ.

          - Trường hợp 3: Giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản là đối tượng của giao dịch đã chuyển giao cho người thứ 3 ngay tình nhận được tài sản này thong qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch, với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đố chủ thể này không phải là chủ sở hữu do tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa thì giao dịch với người thứ 3 vẫn có hiệu lực.

Theo quy định tại khoản 3, điều 133 BLDS 2015: Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ 3 ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo các trường hợp đã phân tích trong các trường hợp thứ nhất và thứ 3 trên đây, nhưng chủ sở hữu có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ 3 hoàn trả những chi phí và bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu tài sản trong trường hợp này là kiện trái quyền yêu cầu chủ thể có lỗi đã xác lập giao dịch có đối tượng là tài sản của mình với người thứ 3, bồi thường thiệt hại về tài sản cho mình