1. Khái niệm thi hành án dân sự là gì?

Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực hiệnbản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án.

Là hoạt động thi hành các bản án, quyết định sau đây của Tòa án: bán án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; quyết định về dân sự trong bản án; quyết định hình sự; các bản án khác do pháp luật quy định...

 

2. Khái niệm việc thi hành án dân sự điển hình là gì?

Dưới góc độ ngữ pháp Tiếng Việt thì “việc thi hành án dân sự” là một từ ghép của từ “việc” và từ “thi hành án dân sự”. “Việc” theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là cái phải làm, nói về mặt công sức bỏ ra; hoặc cái làm hàng ngày theo nghề và được trả công; hoặc đây là một từ có tác dụng danh hóa một hoạt động, một sự việc xảy ra (cùng với từ, hoặc tổ hợp từ hay cấu trúc chủ ngữ - vị ngữ đứng sau làm thành một tổ hợp có chức năng). “Thi hành” là làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định, ở đây là làm cho những nội dung đã được quyết định trong bản án, quyết định được thực hiện trên thực tế.“Thi hành án” được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân tư nhân được Nhà nước trao quyền thực hiện các thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm đảm bảo đầy đủ, kịp thời quyền và các nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. “Thi hành án dân sự” là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Từ đó, có thể hiểu, việc thi hành án dân sự là các loại việc được nhà nước trao cho Chấp hành viên, Thừa phát lại thực hiện nhằm đảm bảo thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
 

3. Thi hành án dân sự về tài sản bảo đảm

Tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng, sau khi được giải quyết bằng thương lượng, hòa giải hay đã có phán quyết của Trọng tài hoặc Toà án, nếu như bên có nghĩa vụ không có khả năng tài chính để thực hiện, thì rất khó thi hành trên thực tế.

Đối với các trường hợp tranh chấp có tài sản bảo đảm, thì khả năng giải quyết khả thi hơn nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có nhiều lý do dẫn đến việc bế tắc hoặc chậm trễ kéo dài trong việc thi hành án đã có tài sản bảo đảm. Có thể quy thành ba nhóm lý do chính là do quy định của pháp luật, do năng lực của cơ quan thi hành án, và do người phải thi hành án chây ỳ, chống đối như sau:

- Trường hợp thi hành án phải cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm.

Do đó, bên nhận tài sản bảo đảm phải đảm nhận trách nhiệm lo nơi ăn chốn cho bên thế chấp (bên có nghĩa vụ trả nợ). Nếu phát mại nhà ở có giá trị thấp mà lại phải thuê nhà trong một năm, thì đồng nghĩa với việc gần như không thu hồi được vốn. Trong khi đúng ra, trách nhiệm này phải thuộc về Nhà nước;

- Người được quyền thu nợ thông qua thi hành án, tức là người được thi hành án luôn phải nộp “mức phí thi hành án là 3% (ba phần trăm) trên số tiền hoặc giá trị tài sản thực nhận nhưng tối đa không vượt quá 200 triệu đồng/ đơn yêu cầu thi hành án” (tức là thấp hơn 3% đối với số tiền trên 5 tỷ đồng). Như vậy, dù con nợ (khách nợ) có thừa khả năng trả nợ và tài sản bảo đảm có thừa giá trị, nhưng người được thi hành án cũng không bao giờ thu đủ số tiền nợ;

- Quy định về lãi suất chậm thi hành án không hợp lý. Có sự quá khác nhau về lãi suất chậm thi hành án, thậm chí bế tắc. Án lệ số 08/2016/AL đã hưống dẫn đối với việc tính lãi chậm trả khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng như sau: “kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay”.

Do vậy, sau khi có Bản án có hiệu lực pháp luật, nếu chậm thi hành án thì khách hàng vay vẫn tiếp tục phải trả lãi theo lãi suất thỏa thuận với tổ chức tín dụng. Điều này là rất vô lý, vì khi đã có Bản án có hiệu lực pháp luật, thì hoàn toàn không còn hợp đồng hay bất kỳ sự thỏa thuận nào giữa các bên, mà chỉ là việc thi hành theo đúng phán quyết của Toà án. Khi đó không thể có cơ sở pháp lý nào để dựa vào lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng, càng không có căn cứ nào để áp dụng và tính toán mức lãi suất điều chỉnh. Chưa kể sự biến động quá lốn của mức lãi suất này, có thể chỉ là 7,5%/năm, nếu như cho vay theo chính sách hỗ trợ mua nhà ỗ thu nhập thấp với lãi suất 5%/năm, nhưng cũng có thể lên đến 105%/năm, nếu như cho vay tiêu dùng lãi suất trong hạn có thể lên đến 70%/năm. Điều này sẽ dẫn đến bế tắc pháp lý, nếu bên được thi hành án và bên phải thi hành án không thỏa thuận được với nhau.

- Đặc biệt là cùng là các hợp đồng cho vay hợp pháp giống nhau, nhưng việc tính lãi suất chậm trả này lại chỉ được áp dụng đối vổi các tổ chức tín dụng. Trong khi đó hợp đồng cho vay của các tổ chức khác và cá nhân thì lại áp dụng theo lãi suất chậm trả chung của Bộ luật Dân sự (lãi suất cơ bản (9%/năm) theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và 10%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015). Ngoài ra, với thời gian xét xử quá dài, cách tính lãi suất chậm trả và lãi suất chậm thi hành án như vậy thì có nhiều thời điểm, việc chậm trả và phải chịu lãi suất quá hạn có khi còn có lợi hơn là trả đúng. Như vậy, là khuyến khích bên phải thi hành án chây ỳ, kéo dài, không tự nguyện thi hành án;

- Trừ một vài trường hợp ngoại lệ đối với các tổ chức tín dụng, nhìn chung việc bán, xử lý tài sản bảo đảm vẫn phải nộp đầy đủ các loại thuế, phí, lệ phí liên quan đến giao dịch chuyển quyền. Do đó, các chủ nợ nói chung, tổ chức tín dụng nói riêng thường không thu đủ số nợ dù tài sản bảo đảm có giá cao hơn khoản nợ. Ví dụ như nếu bán tài sản thế chấp là một toà nhà tại phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội để thu hồi nợ, khắc phục hậu quả phạm tội trong vụ án hình sự rất lớn xảy ra tại Ngân hàng G, thì có thể phải nộp số tiền thuế các loại tổng cộng lên đến vài trăm tỷ đồng, chiếm vài chục phần trăm tổng giá trị tài sản;

- Cơ quan thi hành án gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí bế tắc khi xử lý các trường hợp thực tế tài sản bảo đảm không hoàn toàn khớp đúng với ghi trong phán quyết của Toà án, Trọng tài, do không được ghi nhận trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất hoặc có sự vô ý hoặc cố ý gây biến động trên thực tế. Khó khăn này cũng thường xảy ra tương tự trong quá trình giải quyết tranh chấp trước đó, nhất là khi bên bảo đảm hoặc là bên phải thi hành án cố tình tạo ra những tình huốhg giả tạo về tranh chấp, việc thuê, sử dụng nhà đất.

- Đổi với tài sản đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp mà kết quả xác minh tại thời điểm thi hành án cho thấy tài sản có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng cầm cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án và yêu cầu khi thanh toán hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết. Cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản sau khi đã được giải chấp hoặc thu phần tiền còn lại sau khi xử lý tài sản để thanh toán hợp đồng đã ký, nếu có. Nếu ngưòi nhận cầm cố, thế chấp không thông báo hoặc chậm thông báo mà gây thiệt hại cho ngưòi được thi hành án thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

 

4. Thêm cơ chế ủy thác xử lý tài sản trong thi hành án dân sự

Khoản 1 Điều 57 Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) mới chỉ quy định cơ chế ủy thác thi hành án (ủy thác toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ thi hành án) mà chưa có cơ chế ủy thác xử lý tài sản để xử lý đồng thời tại các địa phương khác nhau. Theo quy định trên, để thực hiện việc ủy thác thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự bắt buộc phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác rồi mới thực hiện việc ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản tại địa phương khác tiếp tục tổ chức thi hành.

Như vậy, theo quy định trên thì cơ quan thi hành án dân sự không được quyền xử lý đồng thời tài sản đã được tuyên trong bản án, quyết định (kể cả thu hồi tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế) và cũng không thể ủy thác cho cơ quan thi hành án nơi có tài sản xử lý mà phải thực hiện theo thứ tự (xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác rồi mới được ủy thác đến nơi có tài sản xử lý tiếp).

Hệ quả là gây ách tắc, kéo dài quá trình tổ chức thi hành án, chậm thu hồi tiền, tài sản (nhất là khoản thu rất lớn cho ngân sách nhà nước, tổ chức tín dụng); ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án khi không được bảo đảm kịp thời; giảm giá trị tài sản; nhiều trường hợp mất mát, hư hỏng; đương sự tẩu tán tài sản; tốn kém thời gian; phát sinh chi phí tổ chức thi hành án, phát sinh thêm khoản tiền lãi chậm thi hành án mà người phải thi hành án sẽ phải chịu, chưa kể làm tăng thủ tục, chậm cải cách hành chính trong thi hành án dân sự.

 

5. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự

Quy định về kê biên tài sản bảo đảm

Tại Khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây gọi là Luật Thi hành án dân sự) quy định, một trong những biện pháp cưỡng chế thi hành án đó là “kê biên, xử lý tài sản của người phải THA, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ”. Điều kiện để cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án là hết thời gian tự nguyện thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự (10 ngày) và người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế (khoản 1 Điều 46). Trường hợp này, bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án. Về thủ tục xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự được quy định tại Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành như sau:

Thủ tục để tiến hành kê biên tài sản bảo đảm  

Việc ra quyết định thi hành án thực hiện theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự nói chung, tuy nhiên, đối với trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đảm bảo thi hành án thì khi ra quyết định thi hành án cần nêu rõ nội dung xử lý tài sản bảo đảm.

Về việc thông báo, trước khi kê biên tài sản là bất động sản ít nhất là 03 ngày làm việc, chấp hành viên thông báo cho đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA. Trường hợp đương sự vắng mặt thì có thể ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Trường hợp đã được thông báo hợp lệ mà đương sự hoặc người được ủy quyền vắng mặt thì chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên, nhưng phải mời người làm chứng và ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên. Trường hợp không mời được người làm chứng thì chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên nhưng phải ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên.

Thực hiện kê biên tài sản đảm bảo thi hành án

Về thủ tục chung, việc kê biên tài sản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê biên, họ, tên chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng. Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được ủy quyền, người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, chấp hành viên và người lập biên bản.

Tham khảo thêm: