1. Nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Cơ quan và người có thẩm quyền phải chấp hành nghiêm các nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao liên tịch quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2017).

Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận, phân loại, xử lý, kiểm tra, xác minh, giải quyết kịp thời, đúng thời hạn theo quy định, không để lọt tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, không làm oan người hoặc pháp nhân thương mại vô tội.

Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật; những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh.

Việc bảo vệ người tố giác, báo tin về tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác phải được thực hiện theo đúng quy định tại Chương XXXIV của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

 

2. Một số quy định chung về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bộ luật Tố tụng Hình sự (TTHS) năm 2003 không đưa ra khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Do đó, đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về các khái niệm này. Theo quy định tại Điều 100 và Điều 101 Bộ luật TTHS năm 2003, chủ thể của tố giác về tội phạm phải là công dân, nhưng trên thực tế, tố giác về tội phạm không chỉ do công dân Việt Nam, mà còn do người nước ngoài cung cấp. Do đó, nếu chỉ quy định công dân Việt Nam mới có quyền tố giác tội phạm là chưa đầy đủ. Khắc phục được thiếu sót này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã thay thế “tố giác của công dân” thành “tố giác của cá nhân” đểmở rộng diện người tố giác vềtội phạm. Vàcá nhân ở đây bao gồm cả công dân Việt Nam và người nước ngoài.

Đối với tin báo về tội phạm, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định gồm có tin báo của cơ quan, tổ chức và tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng[1]. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy, tin báo là thông tin về vụ việc phạm tội, ngoài cơ quan, tổ chức báo tin, thì cá nhân cũng báo rất nhiều tin về vụ việc mà mình biết cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết[2]. Do đó, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung cả tin báo về tội phạm của cá nhân.

Từ thực tiễn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khoản 1, 2, 3 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 đưa ra khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cụ thể như sau:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm”.
Về hình thức của tố giác và tin báo về tội phạm, theo Điều 101 Bộ luật TTHS năm 2003[3], tố giác về tội phạm của công dân có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản, còn tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức phải được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên, xét về mặt học thuật, việc sử dụng thuật ngữ “bằng miệng” chỉ phù hợp với văn nói và chưa bao quát hết được các trường hợp xảy ra[4]. Vì vậy, khoản 4 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi quy định này thành: “Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản”, tức là đã thay “bằng miệng” thành “bằng lời”. Theo đó, tin báo về tội phạm cũng có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
Ngoài ra, khoản 5 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã bổ sung trách nhiệm của việc cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, tố giác, tin báo về tội phạm có thể của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức, do đó nếu chỉ quy định trách nhiệm của “người nào”, tức là của cá nhân như trên là chưa đầy đủ. Để chặt chẽ hơn, cần bổ sung cả trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, do đó chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 5 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:
“Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”.
 

3. Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Khoản 2 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, gồm: a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy nhiên, cùng với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thì cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng là đầu mối tiếp nhận chủ yếu đối với nguồn tin về tội phạm (trừ kiến nghị khởi tố). Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần quy định riêng về trách nhiệm tiếp nhận đối với các cơ quan này trong Bộ luật để thể hiện được rõ vai trò của các cơ quan này, đồng thời là cơ sở pháp lý để văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể[5].

Trên cơ sở quy định trên của Bộ luật TTHS năm 2015, khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 quy định sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã quy định cụ thể các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm[6]. Với quy định này, cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm có phạm vi rất rộng, bao gồm: Công an xã, phường, thị trấn; Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác. Như vậy, cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận không chỉ tố giác về tội phạm của cá nhân mà còn cả tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức khác. Chúng tôi cho rằng, quy định này chưa hợp lý, bởi lẽ các cơ quan, tổ chức đều có quyền và nghĩa vụ báo tin về tội phạm như nhau; hơn nữa, nếu theo quy định này sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy việc báo tin giữa các cơ quan, tổ chức này cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Do đó, cần quy định rõ theo hướng: Công an xã, phường, thị trấn; Đồn công an, Trạm công an; Tòa án các cấp; cơ quan báo chí có trách nhiệm tố giác, tin báo về tội phạm; các cơ quan, tổ chức khác chỉ có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của cá nhân.

Ngoài ra, cùng với việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khoản 4 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định trách nhiệm của việc thông báo kết quả giải quyết này[7]. Quy định việc thông báo này cũng là một hình thức để cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin và cơ quan nhà nước kiến nghị khởi tố giám sát việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Theo chúng tôi, cần bổ sung việc gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Bởi vì, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, và khoản 5 Điều 146 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về trách nhiệm thông báo việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho Viện kiểm sát[8]. Do đó, khoản 4 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015 cần được sửa đổi như sau:
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố”.
 

4. Quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Tiến hành như sau:

Trường hợp cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì cán bộ tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận theo mẫu số 09, (ban hành kèm theo Thông tư 61/2017/TT-BCA), có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố giác, báo tin và hướng dẫn họ viết đơn trình báo (có thể ghi âm, ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận khi thấy cần thiết).

Trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì vẫn phải tiến hành tiếp nhận theo trình tự, thủ tục và ghi rõ lý do từ chối vào biên bản.

Trường hợp cá nhân, đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến gửi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố bằng văn bản thì cán bộ tiếp nhận phải viết Giấy biên nhận (02 bản) theo mẫu số 196 (ban hành kèm theo Thông tư 61/2017/TT-BCA), một bản kèm theo tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, một bản giao cho người gửi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận phải ghi chép vào sổ tiếp nhận đầy đủ các thông tin sau:

Thời gian tiếp nhận thông tin, họ tên cán bộ tiếp nhận, họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số chứng minh nhân dân (hoặc căn cước công dân), ngày, tháng, năm, đơn vị cấp của người tố giác, báo tin;

Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc;

Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc;

Các thông tin khác có liên quan (nếu có) như: họ tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, người làm chứng, bị hại, hướng bỏ trốn của đối tượng, công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, những việc đã làm tại hiện trường khi phát hiện vụ việc ...

Lý do người tố giác, báo tin biết được vụ việc đó, những ai cũng biết vụ việc đó;

Trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì cán bộ tiếp nhận vẫn phải tiến hành tiếp nhận và ghi rõ lý do từ chối;

Sau đó cán bộ tiếp nhận viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý.

Trường hợp tiếp nhận thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm phản ánh qua phương tiện thông tin đại chúng, qua hòm thư điện tử, báo nói, báo hình

Đối với thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng thì cán bộ được phân công phải tiếp nhận bằng cách sao chụp, ghi chép hoặc in bài viết ra giấy báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý; đối với tin báo về tội phạm đã xác định được dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan, đơn vị đó ghi nhận và giải quyết.

Trường hợp chưa xác định được nơi xảy ra sự việc hoặc liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà tin báo về tội phạm phản ánh thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện nơi có trụ sở chính của phương tiện thông tin đại chúng (nơi có địa chỉ rõ ràng) đã đăng tải tin báo trên có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý ban đầu;

Đối với thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm phản ánh trên báo nói, báo hình thì cán bộ tiếp nhận viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý;

Tiếp nhận thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm qua hòm thư điện tử thì cán bộ tiếp nhận có trách nhiệm in thư ra giấy hoặc viết nội dung đó thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý.

Trường hợp tiếp nhận đơn, thư có nội dung liên quan đến tội phạm được gửi qua đường bưu điện, giao liên, thì ngay sau khi tiếp nhận, cán bộ tiếp nhận phải tiến hành phân loại và báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý hoặc chuyển đến bộ phận, đơn vị có chức năng tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để tiến hành phân loại, xử lý theo trình tự, thủ tục quy định tại Thông tư 28/2020/TT-BCA.

Trường hợp người dưới 18 tuổi, người nước ngoài, người dân tộc ít người trực tiếp đến tố giác, báo tin về tội phạm

Đối với trường hợp người dưới 18 tuổi trực tiếp đến tố giác, báo tin về tội phạm thì cán bộ tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư 28/2020/TT-BCA, trong quá trình làm việc cán bộ tiếp nhận cần chú ý khai thác thông tin về nhân thân, lại lịch, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi và liên lạc mời họ nhanh chóng đến trụ sở làm việc để giám hộ.

Trong trường hợp người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp không đến kịp thì mời người chứng kiến hoặc ghi âm, ghi hình có âm thanh (việc ghi âm, ghi hình được ghi rõ vào biên bản và bảo quản theo quy định). Đồng thời khi lấy lời khai cần chú ý đến thái độ, biểu hiện tâm lý của họ để kịp thời có những tác động tích cực nhằm đảm bảo hiệu quả, sau đó báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý;

Đối với người nước ngoài, người dân tộc ít người trực tiếp đến tố giác, báo tin về tội phạm không nói, viết được ngôn ngữ tiếng Việt thì cán bộ tiếp nhận, căn cứ vào khả năng ngôn ngữ của mình để tiếp nhận hoặc kịp thời báo cáo lãnh đạo, chỉ huy đề ra phương án xử lý.

Đối với đơn, thư hoặc các hình thức văn bản khác, không ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, không có chữ ký trực tiếp hoặc điểm chỉ của người tố giác, báo tin hoặc của người gửi đơn, thư nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để kiểm tra, xác minh, thì cán bộ tiếp nhận vẫn tiến hành tiếp nhận, phân loại, xử lý theo quy định.

Tất cả các trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cán bộ tiếp nhận phải ghi vào sổ tiếp nhận nguồn tin về tội phạm theo mẫu số 278 (ban hành theo Thông tư 61/2017/TT-BCA), và phải có trách nhiệm bảo quản, lưu giữ đồ vật, tài liệu có liên quan không để hư hỏng thất lạc, không làm thay đổi hình thức, nội dung văn bản tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, đóng dấu đến, ghi rõ số, ngày, tháng, năm tiếp nhận và nhập vào phần mềm cơ sở dữ liệu (nếu có) để quản lý, theo dõi. Sau khi hoàn thiện thủ tục tiếp nhận thì đơn vị tiếp nhận, cán bộ tiếp nhận tiến hành phân loại, xử lý theo trình tự, thủ tục quy định tại Mục 2 Chương II Thông tư 28/2020/TT-BCA.

Về phân loại, xử lý tin báo

Quy định rõ trách nhiệm phân loại của các lực lượng trong Công an nhân dân như: trách nhiệm phân loại, xử lý tin báo của công cấp xã, Đồn, Trạm Công an và quy trình xử lý tin báo của các đơn vị này trong một số trường hợp cụ thể; quy trình phân loại, xử lý tin báo của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; quy trình xử lý đối với đơn, thư gửi qua Bưu điện…

Việc chuyển tin báo để giải quyết theo thẩm quyền phải có Phiếu chuyển tin báo theo mẫu theo Thông tư 61/2017 của Bộ Công an (Điều 11) và phải thực hiện trong hạn 24 giờ kể từ khi có căn cứ.

Về việc giải quyết tin báo

Điều tra viên chỉ được tiến hành các nội dung kiểm tra, xác minh theo Kế hoạch đã được phê duyệt; nếu phát sinh vấn đề mới không có trong Kế hoạch thì phải phải đề xuất bằng văn bản với chỉ huy phụ trách để báo cáo Thủ trưởng cho ý kiến (Điều 13).

Quá trình giải quyết tin báo, Cơ quan điều tra được phép triệu tập và lấy lời khai những người tham gia tố tụng có liên quan nhằm kiểm tra, xác minh; áp dụng các biện pháp đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra (Điều 14 và đây là nội dung có nhiều quan điểm khác nhau trong thời gian vừa qua).

Chậm nhất 07 ngày trước khi hết hạn kiểm tra, xác minh tin báo, Điều tra viên phải có báo cáo kết thúc việc xác minh bằng văn bản và đề xuất cụ thể theo hướng: khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự; tạm đình chỉ hoặc gia hạn thời hạn xác minh (Điều 15).

Trường hợp ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố hoặc tạm đình chỉ thì đều phải chuyển quyết định kèm hồ sơ cho Viện kiểm sát trong hạn 24 giờ để tiến hành kiểm sát.

Trường hợp không có căn cứ để ra các quyết định khởi tố, không khởi tố, hoặc tạm đình chỉ tin báo nhưng thời hạn xác minh đã hết thì Cơ quan điều tra phải có văn bản trao đổi với Viện kiểm sát để thống nhất quan điểm (đề xuất quan điểm tạm đình chỉ). Nếu Viện kiểm sát đồng ý với đề xuất thì ra quyết định tạm đình chỉ; Nếu Viện kiểm sát không đồng ý và yêu cầu xác minh thì thực hiện yêu cầu đó; nếu Viện kiểm sát không đồng ý và cũng không đề ra yêu cầu xác minh thì đề nghị họp hai ngành để thống nhất nếu vẫn không thống nhất được thì báo cáo xin ý kiến của hai ngành tư pháp cấp trên (Điều 16). Đây là nội dung mới nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong một số trường hợp cụ thể.

Cơ quan điều tra phải thông báo kết quả giải quyết tin báo trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải quyết (nếu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự) cho Viện kiểm sát cùng cấp và người đã tố giác. Trường hợp tạm đình chỉ thì thời hạn này là 24 giờ kể từ khi ra quyết định.

Khi chuyển tin báo trong trường hợp không thuộc thẩm quyền thì cơ quan điều tra phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp đang kiểm sát tin báo đó.

Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình giải quyết tin báo được phân công cho Đội điêu tra tổng hợp công an cấp huyện.

Khi kết thúc giải quyết tin báo thì phải nộp hồ sơlưu trong thời hạn 01 tháng; trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết thì sau 02 năm nếu chưa có tình tiết mới làm căn cứ phục hồi và phải thường xuyên rà soát, nếu có căn cứ thì rút hồ sơ lưu để phục hồi.

Đối với những tin báo đã ra quyết định không khởi tố, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì ngay sau khi nhận được văn bản của Viện kiểm sát đồng ý với Quyết định không khởi tố phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 63 Luật xử lý vi phạm hành chính (không cần lập biên bản vi phạm hành chính).

 

5. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Cùng với quy định mới về tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định về phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố[9]. Với quy định này, thẩm quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chỉ thuộc về cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật TTHS năm 2015[10], Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố[11]. Do đó, khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Nói cách khác, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đều có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Theo đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 149 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi…”.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về quyền bào chữa, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.