Mục lục bài viết
- 1. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm
- 2.Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
- 3. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong chăm sóc y tế
- 4. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân - gia đình
- 5. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao,KH &CN
1. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm
Tương ứng với nội dung Điều 11 CEDAW, khoản 3 Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định: “Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật”.
Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 109 BLL Đ quy định “Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng một mặt với nam giới...”, Điều 13 Luật bình đẳng giới nêu rõ: Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác; bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh. Điều này cũng đề cập đến các biện pháp cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, trong đó bao gồm: (i) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động; (ii) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ; (iii) Tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
Liên quan đến các khía cạnh thù lao và bảo hiểm xã hội, Nghị định số 114/2002/N Đ-CP ngày 31-12-2002 c ủa Chính ph ủ về tiền lương khẳng định quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong việc trả lương, theo đó, lao động nữ nếu cùng làm công việc như lao động nam thì được trả lương như nhau. Nghị định s ố 33/2003/N Đ-CP ngày 02-4-2003 c ủa Chính ph ủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối v ới lao động n ữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và cả với lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tu ổi. Nghị định số 39/2003/N Đ-CP ngày 18-4-2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ. Ngoài ra, các quy định pháp luật về dạy nghề còn quy định học viên nữ không phải bồi thường phí dạy nghề khi chấm dứt hợp đồng học nghề trong trường hợp có giấy chứng nhận của y tế cấp huyện trở lên về việc thực hiện hợp đồng học nghề sẽ bị ảnh hưởng xấu tới thai nhi và sau thời gian nghỉ thai sản nếu có nguyện vọng và đủ điều kiện thì được tiếp tục theo học.
Về độ tuổi nghỉ hưu, mặc dù Ủy ban CEDAW đã khuyến nghị Việt Nam xoá bỏ sự chênh lệch về tuổi nghỉ hưu của lao động nam và lao động nữ nhưng trong lần sửa đổi, bổ sung BLLĐ vừa qua vẫn giữ nguyên quy định tuổi nghỉ hưu của nữ là 55 và nam là 60. Điều này là bởi qua nghiên cứu, khảo sát, có trên 70% số người được hỏi tán thành quy định như vậy. Tuy nhiên, để phù hợp với độ tuổi về hưu của lao động nữ, pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội của Việt Nam đã quy định giảm số năm đóng BHXH để làm căn cứ tính tuổi nghỉ hưu xuống 25 năm đối với nữ (trước đây quy định là 30 năm).
Để bảo đảm sự tuân thủ trên thực tế các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 xác định những hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực này, bao gồm: (i) Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; (ii) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ; (iii) Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính; (iv) Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao động nữ.
2.Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Tương ứng với nội dung của Điều 10 CEDAW, Điều 63 Hi ến pháp 1992 quy định, phụ nữ bình đẳng với nam giới về phương diện văn hóa, xã h ội.
Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 14 Luật bình đẳng gi ới năm 2006 quy định nam n ữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo; tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo. Điều này cũng quy định nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ. Ngoài ra, Điều này còn xác định hai biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bao gồm: (i) Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo; (ii) Hỗ trợ dạy nghề cho lao động nữ ở khu vực nông thôn.
Bên cạnh đó, nguyên tắc bình đẳng nam nữ cũng được quán triệt trong các Luật giáo dục năm 2005 và Luật phổ cập giáo dục Tiểu học năm 1991. K ế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003-2015 xác định bình đẳng giới là một trong những mục tiêu ưu tiên, cụ thể là: "Xoá bỏ bất bình đẳng giới ở bậc tiểu học và trung học vào năm 2005, đạt bình đẳng giới trong giáo dục vào năm 2015, chú trọng đảm bảo trẻ em gái được tiếp cận đầy đủ và công bằng cũng như hoàn thành giáo dục cơ bản với chất lượng tốt".
Để bảo đảm sự tuân thủ trên thực tế các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 xác định các hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực này, bao gồm: (i) Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ; (ii) Vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính; (iii) Từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nh ỏ; (iv) Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới.
3. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong chăm sóc y tế
Tương ứng với nội dung Điều 12 CEDAW, Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định, phụ nữ bình đẳng với nam giới về phương diện xã hội.
Liên quan đến quyền này, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 (các điều 1 và 23) cũng đã khẳng định, mọi công dân (không phân biệt nam, nữ và các yếu tố khác) đều bình đẳng về quyền được bảo vệ sức khoẻ và được tiếp cận v ới các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. Điều 17 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định nam, nữ bình đẳng trong các vấn đề: (i) Tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế; (ii) Lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Bên cạnh các quy định kể trên, Nhà nước Việt Nam đã ban hành và sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật khác nhằm bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ trong hoạt động chăm sóc sức khỏe. Cụ thể, theo Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006, phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí; phụ nữ nhiễm HIV được tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS và được tạo điều kiện tiếp cận các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con ( Điều 35). Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe nhằm vào đối tượng ưu tiên là phụ nữ, trong đó bao gồm Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, , dinh dưỡng, chăm sóc và bảo vệ s ức khoẻ nhân dân giai đ oạn 2001-2010; Chi ến lược Dân s ố giai đ oạn 2001- 2010; Chương trình m ục tiêu qu ốc gia Dân s ố và K ế hoạch hóa Gia đình đến năm 2010... Ngoài ra để đảm bảo h ộ tr ợ trong việc chăm sóc s ức kh ỏe Nhà nước còn ban hành Luật bảo hiểm y t ế năm 2008, Luật hoạt động ch ữ thập đỏ năm 2008...
Để bảo đảm sự tuân thủ trên thực tế các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong chăm sóc y tế, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 xác định những hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực này, bao gồm: (i) Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới; (ii) Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.
4. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân - gia đình
Tương ứng với nội dung Điều 16 CEDAW, Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định, phụ nữ bình đẳng với nam giới về phương diện gia đình. Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 2 Luật HN&G Đ năm 2000 khẳng định nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các con, bao gồm giữa con trai và con gái. Điều 19 Luật này quy định vợ, chồng bình đẳng, có nghĩa v ụ và quyền ngang nhau về m ọi mặt trong gia đình. Các điều ti ếp theo c ụ thể hoá quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong những vấn đề như: lựa chọn nơi cư trú ( Điều 20); lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo ( Điều 22); lựa chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ( Điều 23); sở hữu, quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung và riêng (các điều 27, 28, 32, 33); thừa kế tài sản của nhau (Điều 31); chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, đại diện cho con cái, quản lý, định đoạn tài sản riêng của con cái và bồi thường những thiệt hại do con cái gây ra (các điều 34, 36, 37, 38, 39, 40, 45, 46); xin ly hôn, chia tài sản và trách nhiệm với con cái sau khi ly hôn (các điều 85, 92, 94, 95, 97, 98, 99)... Cũng liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân – gia đình, Nghị định số 32/2002/N Đ-CP ngày 23-3-2002 của Chính ph ủ hướng dẫn việc áp d ụng Luật HN&G Đ đối với các dân tộc thiểu số quy định những biện pháp nhằm từng bước xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu không có lợi cho phụ nữ của các dân t ộc thiểu số bằng hai hình thức: Thứ nhất, vận động xóa bỏ các phong tục, tập quán bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình và thể hiện s ự phân biệt đối x ử gi ữa con trai và con gái (các điều 10,13). Thứ hai, nghiêm cấm thực hành các tập quán như: (i) Buộc người vợ góa, chồng goá phải lấy một người khác trong gia đình chồng cũ, vợ cũ mà không được sự đồng ý của người đó ( Điều 6); (ii) Thách cưới cao mang tính gả bán và các hành vi cản trở việc kết hôn hoặc xâm phạm đến nhân phẩm người phụ nữ ( Điều 9); (iii) Phân biệt đối xử giữa các con ( Điều 13); (iv) Đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ chồng ly hôn ( Điều 15)...
Trong vấn đề sức khoẻ sinh sản, Pháp lệnh dân số năm 2003 (được sửa đổi, bổ sung năm 2008) nêu rõ, vợ và chồng có quyền bình đẳng trong việc quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con. Nghị định số 104/2003/N ĐCP ngày 16-9-2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh dân số nghiêm cấm những hành vi lựa chọn giới tính thai nhi và đe dọa, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể người sử dụng biện pháp tránh thai, người sinh toàn con trai hoặc toàn con gái (các điều 9, 10).
Ngoài ra, Luật bình đẳng giới năm 2006 ( Điều 18) c ũng quy định vợ, chồng bình đẳng với nhau trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều 18 đồng thời cụ thể hoá quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trên lĩnh vực hôn nhân gia đình, trong đó bao gồm các khía cạnh như: sở hữu, sử dụng tài sản chung; lựa chọn và sử dụng biện pháp ế hoạch hoá gia đình; sử d ụng th ời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm sự tuân thủ trên thực t ế các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân - gia đình, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 xác định những hành vi vi phạm pháp luật có liên quan, bao gồm: (i) Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính; (ii) Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác c ủa gia đình vì định kiến gi ới; (iii) Đối xử bất bình đẳng v ới các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính; (iv) Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính; (v) Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.
5. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao,KH &CN
Tương ứng với nội dung Điều 13 CEDAW, Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định, phụ nữ bình đẳng với nam giới về phương diện văn hóa, xã hội. Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 16 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và trong hưởng th ụ văn hoá, ti ếp cận và s ử d ụng các nguồn thông tin. Bên cạnh đó, nguyên tắc bình đẳng gi ới trên lĩnh vực này cũng được thể hiện trong các văn bản pháp luật khác nh ư Luật điện ảnh Luật thể d ục, thể thao năm 2006; Nghị định s ố 69/2008/N Đ-CP ngày 19-8-1999 của Chính ph ủ quy định về chính sách khuyến khích th ực hiện ch ủ trương xã h ội hoá trong lĩnh vực thể thao, văn hoá... C ũng nhằm c ụ thể hóa quy định trên c ủa Hi ến pháp, Điều 15 Luật bình đẳng gi ới năm 2006 quy định, nam, n ữ bình đẳng trong việc ti ếp cận, ứng d ụng khoa h ọc và công nghệ c ũng nh ư trong việc ti ếp cận các khoá đào tạo về khoa h ọc và công nghệ, ph ổ bi ến k ết quả nghiên c ứu khoa h ọc, công nghệ và phát minh, sáng ch ế. Nguyên tắc bình đẳng gi ới c ũng được thể hiện trong các luật và chính sách hiện hành trên lĩnh v ực này nh ư Luật giáo d ục năm 2005, Luật khoa h ọc và công nghệ năm 2000, Luật dạy nghề năm 2006, Luật công nghệ cao năm 2009... Để bảo đảm s ự tuân th ủ trên th ực t ế các quy định về quyền bình đẳng c ủa ph ụ n ữ trong lĩnh v ực văn hóa, thông tin, thể d ục, thể thao, Điều 40 Luật Bình đẳng gi ới năm 2006 xác định nh ững hành vi vi phạm pháp luật có liên quan bao gồm: (i) Cản tr ở nam, n ữ sáng tác, phê bình văn h ọc, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các hoạt động văn hóa khác vì định ki ến gi ới; (ii) Sáng tác, lưu hành, cho phép xu ất bản các tác phẩm dưới b ất kỳ thể loại và hình th ức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng gi ới, định ki ến gi ới; (iii) Truyền bá t ư tưởng, t ự mình th ực hiện hoặc xúi giục người khác th ực hiện phong t ục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về gi ới dưới mọi hình th ức. Để bảo đảm sự tuân thủ trên thực t ế các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, Điều 40 Luật bình đẳng gi ới năm 2006 xác định nh ững hành vi vi phạm pháp luật có liên quan bao gồm: (i) Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ; (ii) T ừ ch ối việc tham gia c ủa m ột gi ới trong các khoá đào tạo về khoa h ọc và công nghệ.
Luật Minh Khuê (sưu tầm và biên tập)