1. Quyền lực tư pháp

Chức năng cơ bản của tòa án là áp dụng pháp luật không thiên vị đối với các tranh chấp đưa ra trước tòa. Chức năng này có mối liên hệ mật thiết với sự ổn định và tính chính danh của nhánh tư pháp và trật tự hiến pháp. Sự không thiên vị là yếu tố nền tảng. Theo đó, các thẩm phán phải xem xét các tình tiết trước họ một cách không định kiến và áp dụng pháp luật công bằng, không bị ảnh hưởng bởi các quan điểm chính trị hay thiên kiến cá nhân. Sự không thiên vị không chỉ tạo khả năng tốt nhất cho việc bảo đảm công lý trong việc xử lý tranh chấp mà nó còn tạo lập sự tin cậy và niềm tin cho thiết chế tư pháp. Sự không thiên vị đồng thời tạo chuẩn mực cho các thẩm phán thực hiện các chức năng khác, bao gồm cả chức năng quan trọng là bảo vệ tính vẹn toàn của hiến pháp. Tuy nhiên, thẩm phán cũng là con người và rất có thể hai thẩm phán cùng xét xử không thiên vị nhưng lại đi đến những phán quyết khác nhau đối với những vụ việc có tình tiết như nhau. Áp dụng pháp luật cho các tình tiết để giải quyết một tranh chấp hoặc một vụ án cụ thể yêu cầu việc giải thích pháp luật hoặc việc tìm hiểu xem luật đòi hỏi điều gì trong một tình huống cụ thể mà có thể không lường trước đó. Trách nhiệm áp dụng pháp luật do đó đòi hỏi một mức độ quyền lực nhất định trong việc xem xét ngữ nghĩa của luật. Thẩm phán vì vậy cần phải có chức năng sáng tạo nhất định, tuy nhiên chức năng đó không khi nào là tuyệt đối. Một số công cụ khác, như cơ chế phúc thẩm, những đạo luật chi tiết hay việc tôn trọng các tiền lệ được thiết lập trong các vụ án trước đã kiềm chế chức năng sáng tạo của thẩm phán và giúp duy trì sự áp dụng pháp luật thống nhất trong toàn nhánh tư pháp. Tuy nhiên, hoạt động giải thích và áp dụng pháp luật được xem là một quyền lực thiết yếu của nhánh tư phápvà cũng là nội dung thiết yếu đối với khái niệm pháp quyền. Khái niệm này đặt ra nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí về sự bình đẳng trước pháp luật, sự công bằng trong việc áp dụng pháp luật và khả năng tiếp cận các thiết chế công lý như tòa án hiệu năng. Chức năng áp dụng pháp luật cũng đề cập những hoạt động cơ bản của các nhánh quyền lực khác, đặc biệt là các hoạt động trong quá trình lập pháp. Bên cạnh chức năng thường xuyên là thực thi công lý, nhánh tư pháp cũng là một nhánh chính quyền. Hiến pháp trao quyền cho nhánh tư pháp và các nhánh chính quyền khác với tư cách là bộ phận được thiết kế nhằm tạo ra một hệ thống chính quyền hiệu năng. Do đó, nhánh tư pháp có mối quan hệ với các nhánh quyền lực khác. Nhánh tư pháp kiểm soát hoạt động của các nhánh quyền lực khác, đồng thời nó cũng theo nghĩa nào đó bị định hình bởi các nhánh quyền lực đó. Phần còn lại của chương này sẽ tập trung vào vai trò của tư pháp trong việc duy trì trật tự hiến pháp và cách thức nhánh tư pháp tương tác với các nhánh quyền lực khác. Bên cạnh đó, chương này cũng nghiên cứu bộ máy tổ chức nhánh tư pháp và đặc biệt là khả năng nhiều hệ thống tòa án và pháp luật vận hành cùng nhau dưới một hiến pháp.

2. Kiểm hiến

Một trong những vai trò chủ yếu của tư pháp hiện đại là duy trì các bảo đảm về mặt hiến pháp. Nhánh tư pháp thực hiện chức năng này thông qua kiểm hiến, còn được gọi là tài phán hiến pháp. Kiểm hiến được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau và có thể liên quan đến nhiều cơ chế giám sát khác nhau, nhưng mục tiêu của chúngtrong các hệ tài phán là giống nhau – duy trì nguyên tắc và điều khoản hiến định, không cho phép bất cứ đạo luật, văn bản pháp quy hay hành vi nào của chính quyền trái với hiến pháp. Nếu đạo luật hoặc hành vi nào trái với hiến pháp, Tòa án sẽ tuyên đạo luật hoặc hành vi đó vô hiệu. Hiến pháp là luật tối cao mà theo đó tất cả các luật và các hành vi của chính quyền đều phải tuân thủ. Nhánh tư pháp bảo đảm thi hành trật tự đó bằng việc tham gia vào quá trình kiểm hiến. Trong khi các bản hiến pháp thường trao quyền làm luật cho nhánh lập pháp, sự phân bổ quyền lực này có điều kiện là sự ban hành luật không được trái hoặc khước từ các điều khoản và nguyên tắc hiến pháp. Kiểm hiến là một cơ chế duy trì và thực thi hiến pháp. Đây là phương tiện đem lại tính có hiệu lực cho các điều khoản hiến pháp và ngăn ngừa các đạo luật khác vi phạm các điều khoản này.

3. Đối tượng kiểm hiến

Kiểm hiến có thể mở rộng phạm vi đối tượng đến rất nhiều dạng văn bản pháp luật. Ở cấp độ cơ bản, kiểm hiến cho phép nhánh tư pháp xem xét tính phù hợp với các yêu cầu của hiến pháp của các đạo luật. Tuy nhiên, phạm vi kiểm hiến thường mở rộng tới cả việc kiểm tra tính phù hợp với hiến pháp của các văn bản khác hoặc các hành vi khác, như các quyết định hành chính hay các văn bản mang tính hành pháp. Ví dụ, Hiến pháp một số quốc gia cho phép thực hiện tài phán hiến pháp đối với các văn bản luật được ban hành trên cơ sở các điều ước quốc tế. Kiểm hiến có thể mở rộng phạm vi đối tượng không chỉ bao gồm những đạo luật ở cấp quốc gia mà còn bao gồmcả các văn bản luật do chính quyền cấp dưới ban hành. Ở Nam Phi, quyền kiểm hiến của Tòa án tối cao theo Hiến pháp năm 1996 mở rộng tới tất cả các cấp chính quyền, bao gồm cả hiến pháp các tỉnh. Những văn bản này đều phải tuân theo Hiến pháp quốc gia. Tương tự, theo Hiến pháp Serbia, Tòa án Hiến pháp có quyền tài phán xem xét tính hợp hiến của các văn bản chung của các tỉnh tự trị và các đơn vị tự quản địa phương. Nhánh tư pháp cũng có thể xem xét tính hợp hiến của các hành vi của nhánh lập pháp và hành pháp khi những hành vi này gây ra mối quan ngại về sự phân chia quyền lực đã được thiết lập trong hiến pháp. Hoạt động kiểm hiến này nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp giữa các nhánh chính quyền và cơ quan nhà nước - để xác định thẩm quyền của các nhánh chính quyền, bao gồm cả thẩm quyền của bản thân nhánh tư pháp, chứ không giải quyết các tranh chấp tư mà. Tòa án Hiến pháp nước Cộng hòa Hàn Quốc có quyền xem xét tính hợp hiến của sự phân chia quyền lực giữa các nhánh chính quyền. Tòa cũng có thể có quyền kiểm tra sự phân chia quyền lực giữa các cấp chính quyền, chẳng hạn như giữa chính quyền vùng và chính quyền quốc gia. Ví dụ, Hiến pháp Cameroon trao cho nhánh tư pháp quyền giải quyết tranh chấp giữa nhà nước trung ương và chính quyền cấp vùng cũng như giữa chính quyền các vùng với nhau. Hiến pháp của Ấn Độ, Malaysia, Mexico và Nigeria cũng cho phép việc xem xét tính hợp hiến của sự phân chia quyền lực giữa các cấp chính quyền. Cuối cùng, các nhà soạn thảo Hiến pháp có thể cho phép nhánh tư pháp xem xét tính hợp hiến của việc không hành động của chính quyền, ngoài việc xem xét tính hợp hiến của những hoạt động của chính quyền. Ở Uganda, Tòa Phúc thẩm, giữ vai trò như Tòa án Hiến pháp, có thẩm quyền như vậy. Điều 137 (3) cho phép cá nhân được kiện ra Tòa về việc vi phạm hiến pháp của “bất cứ hành vi hay bất hành vi nào của bất cứ người nào hoặc cơ quan quyền lực nào. Nếu như đơn kiện đó được xem là đủ căn cứ, Tòa án có thể đưa ra những biện pháp xử lý.

4. Chủ thể kiểm hiến

Quy trình kiểm hiến cũng như phạm vi kiểm hiến có sự khác nhau giữa các quốc gia. Quy trình kiểm hiến liên quan mật thiết, nếu không muốn nói là hết sức cht chẽ, với các hình thức tổ chức tòa án được thiết lập bởi hiến pháp và hệ thống pháp luật đang vận hành ở quốc gia đó. Cái được gọi là mô hình kiểm hiến Hoa Kỳ khác biệt so với cái được gọi là mô hình Châu Âu ở yếu tố trao quyền cho các thiết chế khác nhau tham gia vào việc kiểm hiến. Theo mô hình Hoa Kỳ, các tòa án thường trong nhánh tư pháp có thẩm quyền đương nhiên tham gia vào việc kiểm hiến. Nói cách khác, thậm chí tòa án cấp dưới cũng có thể phán xét rằng đạo luật hay một hành vi của chính quyền là vi phạm hiến pháp. Khi đưa ra phán quyết như vậy, tòa án phải quyết định vụ án trên cơ sở đối chiếu với các yêu cầu của hiến pháp và từ chối áp dụng đạo luật đang được xem xét căn cứ vào tính hợp hiến hay không của đạo luật. Những phán quyết này có thể được kháng cáo, nhưng dù vậy thì một dạng thức của kiểm hiến cũng đã được thi hành. Tòa án Tối cao, là tòa phúc thẩm tối cao, thường nằm ở trên đỉnh của hệ thống tư pháp, sẽ có tiếng nói cuối cùng về tính hợp hiến của đạo luật đang được xem xét. Bởi phần lớn Tòa án Tối cao ở các quốc gia theo mô hình Hoa Kỳ thường chỉ xem xét một số nhỏ trong số các vụ việc cần xem xét tính hợp hiến, các tòa án cấp dưới quyết định phần lớn những tranh chấp hiến pháp. Hiến pháp của Estonia áp dụng mô hình tài phán hiến pháp cho phép tòa án cấp dưới có thể xem xét các vấn đề mang tính hiến pháp. Bồ Đào Nha mặc dù có hệ thống Tòa án Hiến pháp nhưng cũng cho phép các tòa án cấp dưới tham gia kiểm hiến. Việc trao quyền cho các tòa án cấp dưới như vậy có thể được xem như một phương thức tản quyền đối với quyền kiểm hiến của nhánh tư pháp (xem chương 7 Tài liệu này về sự phi tập trung hóa quyền lực). Tuy nhiên, cuối cùng thì sự tản quyền này cũng vẫn yêu cầu tòa án các cấp phải đưa ra phán quyết phù hợp với hiến pháp, và do vậy ở mức độ nào đó đã giới hạn nguồn của những phán quyết đó về một quyền lực tập trung – chính là bản thân hiến pháp.

5. Ưu điểm của mô hình kiểm hiến

Ưu điểm của mô hình kiểm hiến này là khả năng kháng cáo đối với phán quyết của tòa án. Cả tòa án cấp dưới và tòa án cấp trên sẽ cùng xem xét vấn đề và đánh giá, cân nhắc về tính hợp hiến trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Quá trình này đòi hỏi dành thời gian lớn, tuy nhiên đó lại là sự bất lợi. Theo mô hình này, có thể phải mất nhiều năm trước khi những vấn đề xem xét về tính hợp hiến được chuyển tới tòa án cấp cao nhất và quyết định chung thẩm được đưa ra. Nó cũng dẫn tới sự thiếu nhất quán giữa các tòa cấp dưới cho đến khi phán quyết cuối cùng được tòa án cấp cao nhất đưa ra, do các tòa án cấp dưới có thể quyết định khác nhau về các vụ việc có tình tiết tương tự nhau. Mô hình kiểm hiến thay thế khác là mô hình Châu Âu, trong đó có sự tách bạch chức năng kiểm hiến khỏi hệ thống tòa án thường. Theo mô hình này, một Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền riêng đối với tất cả các yêu cầu, khiếu kiện liên quan đến Hiến pháp. Một số chuyên gia lập luận rằng mô hình này - không giao thẩm quyền kiểm hiến cho các tòa án thường - bảo đảm tốt hơn nguyên tắc phân quyền. Theo cách nhận thức này, Tòa án Hiến pháp được xem như một cơ quan giám sát tách bạch với tất cả các nhánh quyền lực, với nhiệm vụ duy nhất là gìn giữ những đòi hỏi, yêu cầu của hiến pháp. Do vậy, xét về mặt lý thuyết, cơ chế này không cho phép bất cứ nhánh quyền lực nào nắm quá nhiều quyền lực đối với các nhánh khác, do đó bảo đảm sự phân quyền rõ ràng. Hơn nữa, nó không trao cho một nhánh quyền nào năng lực quyết định về tính hợp hiến. Trái ngược với mô hình Hoa Kỳ, mô hình Châu Âu tập trung quyền kiểm hiến trao cho một tòa án duy nhất, do không một cơ quan tư pháp nào khác có thể phán quyết về tính hợp hiến. Những ví dụ về Tòa án Hiến pháp theo mô hình Châu Âu có thể được tìm thấy ở Benin, CHLB Đức, Liên bang Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraina. Một số quốc gia khác thiết lập thiết chế tương tự như tòa án hiến pháp để thực hiện việc kiểm hiến.

Luật Minh Khuê ( sưu tầm và biên tập )