Mục lục bài viết
- 1. Hiệp định GATT bắt đầu bộc lộ những giới hạn và tiêu điểm chật hẹn
- 2. Vòng Uruguay - mở đầu cho các quy tắc thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ
- 3. Các chính sách liên quan đến sức khỏe và tiêu chuẩn an toàn
- 4. Ý nghĩa của việc ký kết thỏa thuận về những lĩnh vực mới
- 5. Kết quả của vòng đán phán Uruguay
1. Hiệp định GATT bắt đầu bộc lộ những giới hạn và tiêu điểm chật hẹn
Những giới hạn và tiêu điểm chật hẹp của các quy tắc của hệ thống thương mại đa phương thể hiện trong Hiệp định GATT đã trở nên rõ ràng vào giữa thập niên 1970, khi người ta bắt đầu cảm thấy những tác động đầu tiên của toàn cầu hóa. Thương mại tự do hơn, cùng với việc mở cửa thị trường vốn đã khuyến khích các doanh nghiệp suy nghĩ lại về chiến lược và cơ cấu sản xuất của mình. Đối với nhiều doanh nghiệp, địa điểm sản xuất ngày càng xa thị trường tiêu thụ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bùng nổ, được khích lệ bởi sự nổi lên của một thị trường vốn không biên giới. Gia công ngoại dụng (outsource) trở thành một cách khai thác tính đa dạng của các điều kiện và chi phí sản xuất. Nhưng khi các doanh nghiệp mở rộng hoạt động ra khỏi biên giới một quốc gia riêng rẽ nào đó thì cũng đồng thời phải bắt đầu quan tâm tới sự khác biệt trong những quy định mà họ phải đối mặt. Một liên minh những nhóm lợi ích công cộng và tư nhân bắt đầu nhắm mục tiêu vào các khía cạnh hạn chế trong sự khác biệt về quy định đối nội, tập hợp chúng dưới một cái tên chung là “những rào cản phi thuế”. Những khía cạnh liên quan trực tiếp tới chính sách thương mại - chẳng hạn như các phương thuốc bảo đảm thương mại công bằng mà các quốc gia sử dụng ngày càng nhiều để đền bù cho tổn thương do làn sóng nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu gây ra - cuối cùng cũng trở thành đối tượng điều chỉnh khi những bộ luật nhiều bên của Vòng Tokyo được chuyển đổi thành những thỏa thuận đa phương, như chúng ta đã bàn tới ở chương trước. Những rào cản thương mại nào là tác dụng phụ của những quy định đối nội khác nhau thì đặt ra những thách thức căn bản hơn cho việc thiết kế các quy tắc thương mại.
2. Vòng Uruguay - mở đầu cho các quy tắc thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ
Một nhiệm vụ to lớn hơn nữa của Vòng Uruguay là đưa quy tắc thương mại vào những lĩnh vực mà cho đến lúc đó đã né tránh được sự chú ý. Cuộc rẽ hướng cấp tiến nhất của Vòng Uruguay so với thực tế của GATT chính là sự thành công của nó trong việc tích hợp hai phương diện mới của thương mại quốc tế vào khung mẫu pháp lý của hệ thống đa phương. Vòng Uruguay bao gồm cả sự thiết lập các quy tắc điều khiển thương mại dịch vụ, thừa nhận vai trò ngày càng quan trọng của dịch vụ trong hệ thống thương mại, và thiết lập quy tắc bảo hộ sở hữu trí tuệ - một khía cạnh đã được bao hàm trong một số bộ luật nhiều bên nằm ngoài vương quốc của GATT nhưng không nhận được sự hỗ trợ bởi bất kỳ tiến trình giải quyết tranh chấp nào. Cả hai lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ đã được kết hợp một cách tích cực vào những quy tắc thương mại nội bộ của Cộng đồng kinh tế Âu châu (EEC). Kinh nghiệm từ nỗ lực ấy giúp các nhà thương thuyết tin rằng, có thể đặt ra quy tắc trong những lĩnh vực mới mẻ này của chính sách thương mại. Hiệp định Thương mại Tự do Hoa Kỳ-Canada cũng đã thử mở rộng quy tắc thương mại theo phương hướng này. Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (General Agreement on Trade in Services - GATS) và Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade Related Aspects of Intellectual Property Rights - TRIPS), cùng với Hiệp định GATT giữ vai trò công cụ lập pháp chủ yếu của hệ thống thương mại. Tuy nhiên không giống như các thỏa thuận chung GATS và GATT, TRIPS kéo dài nghĩa vụ của các chính phủ đi xa hơn vào việc thiết kế những quy tắc tạo điều kiện dễ dàng cho thương mại vào một lĩnh vực trước đây được coi là một khía cạnh của chính sách thuần túy đối nội.
Các quy tắc đa phương trong những lĩnh vực mới mẻ này không nhất thiết phải có tác dụng tăng cường phúc lợi. Có những lý do lý thuyết vững chắc để tin rằng, tự do hóa thương mại hàng hóa giúp nâng cao phúc lợi của các quốc gia tham gia tự do hóa; kỳ vọng đó được hỗ trợ bằng những chứng cứ do kinh nghiệm. Trái lại, quy tắc chặt chẽ trong một số lĩnh vực mới mẻ nào đó, chẳng hạn như bảo vệ sở hữu trí tuệ, có thể bị trục lợi (Barton 2001), và tự do hóa trong một số lĩnh vực mới mẻ khác như viễn thông chẳng hạn có thể có hiệu quả song cũng có những hệ quả nghiêm trọng về mặt phân phối giữa các quốc gia.
3. Các chính sách liên quan đến sức khỏe và tiêu chuẩn an toàn
Phần lớn những chính sách đối nội liên quan đến sức khỏe và tiêu chuẩn an toàn cũng đã thoát khỏi những quy định của các quy tắc thương mại ngay cả khi chúng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thương mại. Hiệp định mới về các Biện pháp Vệ sinh và Vệ sinh Thực vật (Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures) cố gắng đặt ra giới hạn cho các chính sách đối nội trong lĩnh vực này, nhất là nghĩa vụ sử dụng quy trình đánh giá rủi ro được các chứng cứ khoa học ủng hộ. Bộ Luật Tiêu chuẩn (Standards Code) được cải tiến, và Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật đối với Thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade) quan tâm nhiều hơn tới những biện pháp kỹ thuật vận hành phía sau biên giới trong một nỗ lực đưa vào khuôn khổ việc sử dụng những quy định như vậy để che đậy việc bảo hộ các nhà sản xuất nội địa.
4. Ý nghĩa của việc ký kết thỏa thuận về những lĩnh vực mới
Trong việc tích hợp những lĩnh vực “mới”, nhất là về dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ, và việc chi tiết hóa những quy tắc đa phương nhằm điều hành những chủ đề sau biên giới khác như sức khỏe con người và sự an toàn, hệ thống thương mại đã thay đổi bản chất của nó theo những cách thức hết sức có ý nghĩa. Trước tiên, như đã thấy trong bảng 4.2, quá trình thương thảo và ký kết các thỏa thuận về những lĩnh vực mới mẻ này đã thay đổi cấu trúc và đặc tính của các liên minh chính trị nội địa - các liên minh mà theo truyền thống sẽ hướng dẫn chính sách thương mại. Trong phần lớn thời kỳ sau Hiệp định GATT, chính sách thương mại của châu Âu và Hoa Kỳ được dẫn dắt bởi xung đột giữa các nhà sản xuất hàng hóa nhắm tới xuất khẩu một cách hiệu quả và các nhà sản xuất hàng hóa cạnh tranh với hàng nhập khẩu một cách kém hiệu quả câu kết với giới lao động có tổ chức. Những cuộc thương thuyết toàn cầu về các vấn đề mới cũng lôi kéo những nhà hoạt động mới ngoài hệ thống nhà nước - chẳng hạn như các nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng, các nhóm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các nhà đấu tranh bảo vệ môi trường - vào nền chính trị quốc nội trong việc hoạch định chính sách thương mại. Hơn thế nữa, như đã tóm tắt trong Bảng 5.1, những vấn đề mới đòi hỏi những nguyên tắc điều hành toàn cầu mới. Trong một số bối cảnh, các nhà thương thuyết thương mại đã bắt đầu phác thảo những thỏa thuận mới dựa trên các nguyên tắc cũ về quy chế tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia, nhưng họ đều biết rằng các cuộc thương thảo trên nền tảng đó sẽ đi đến thất bại. Từ đó họ phát triển những nguyên tắc mới để hướng dẫn thỏa thuận về các lĩnh vực mới.
BẢNG 4.2: Cơ sở chính trị của những hạn chế thương mại khác nhau
| Các công cụ hướng tới mục tiêu chính sách thương mại | Các công cụ hướng tói mục tiêu chính sách nội địa |
Các công cụ hoạt động ở biên giới (chủ yếu là hàng hóa) | Trục lợi theo lối truyền thống Bảo hộ việc làm Sức cạnh tranh quốc gia | Trục lợi theo lối truyền thống Ưu đãi tập thể Khác biệt về văn hóa Bảo hộ người tiêu dùng |
Các công cụ hoạt động sau biên giới (cả hàng hóa và dịch vụ) | Tìm kiếm khe hở theo lối truyền thống Mối quan tâm đối với đầu tư nước ngoài Sức cạnh tranh quốc gia Bảo hộ công nhân | Trục lợí theo lối truyền thống Hệ thống chính sách về điều hành Hệ thống chính sách về lao động và việc làm Chính sách côngnghiêp (bao gồm vấn đề sở hữu trí tuệ) |
| Các công cụ với các Mục tiêu Chính sách Thương mại | Các công cụ với các Mục tiêu Chính sách Đối nội |
Các công cụ vận hành ở biên gid (chủ yếu là hàng hóa) | Giảm thuế nhập khẩu Tự do hóa cơ chế hạn ngạch Quy chế tối huệ quốc (MFN) | Đối xử quốc gia Công nhận lẫn nhau Những giả định ưu tiên cho các tiêu chuẩn quốc tế, hạn chế thương mại ở mức thấp nhất hoặc dựa trên tiêu chuẩn khoa học |
Các công cụ vận hành sau biên giới (cả hàng hóa và dịch vụ) | Quyền của tổ chức Đối xử quốc gia Ưu đãi đầu tư Trợ cấp | Sự hài hòa hóa hoặc sự tiếp cận các tiêu chuẩn Tính minh bạch trong việc thiết lập tiêu chuẩn Các đòi hỏi thực thi hiệu quả |
5. Kết quả của vòng đán phán Uruguay
Rất nhiều hiệp định được ký kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay có một phần xác định lịch trình cho những việc phải làm trong tương lai. Một số việc được tiến hành lập tức sau đó. Đối với một số lĩnh vực, việc phải làm là tiếp tục đàm phán hoặc xúc tiến những cuộc đàm phán mới. Một số lĩnh vực khác lại yêu cầu đánh giá tình hình triển khai hiệp định vào những thời điểm cụ thể. Một số cuộc đàm phán kết thúc rất chóng vánh, đặc biệt là về vấn đề hạ tầng viễn thông và dịch vụ tài chính (chính phủ các nước đã rất nhanh chóng đi đến thống nhất về việc mở cửa thị trường thương mại sản phẩm công nghệ thông tin, vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ của chương trình bộ phận này).
Sau vòng đàm phán Uruguay, đã có những sửa đổi và mở rộng nội dung đối với văn bản gốc về chương trình kế hoạch. Một chương trình kế hoạch bao gồm hơn 30 phần.
1996: Dịch vụ vận tải hàng hải: kết thúc đàm phán về mở cửa thị trường (tiến hành vào ngày 30-6-1996, hoãn lại tới năm 2000, sau chuyển sang chương trình phát triển Doha)
Dịch vụ và môi trường: xác định thời hạn báo cáo kết quả của nhóm công tác (hội nghị bộ trưởng tháng 12 năm 1996)
Dịch vụ công: tiến hành đàm phán
1997: Hạ tầng viễn thông: kết thúc đàm phán (15-2); Dịch vụ tài chính: kết thúc đàm phán (30- 12); Sở hữu trí tuệ: thiết lập hệ thống đóng dấu và đăng ký mã vùng đối với các sản phẩm rượu vang: tiến hành đàm phán, trở thành một bộ phận trong chương trình đàm phán vì sự phát triển Doha
1998: Hàng dệt may: một giai đoạn mới bắt đầu vào ngày 1-1; Dịch vụ: (các biện pháp khắc phục kịp thời): áp dụng kết quả đàm phán liên quan đến các biện pháp khắc phục kịp thời (trước 1-1-1998, hoãn lại đến tháng 3-2004); Luật về xuất xứ sản phẩm: chương trình làm việc đi đến sự thống nhất tương đối giữa luật về xuất xứ sản phẩm của các quốc gia (20-7-1998); Thị trường công: mở những cuộc đàm phán mới để cải thiện hệ thống luật và thủ tục (trước năm 1998); Giải quyết tranh chấp: xem xét kỹ về luật và thủ tục giải quyết tranh chấp (trước năm 1998)
1999: Sở hữu trí tuệ: bắt đầu xem xét một số ngoại lệ đối với việc cấp bằng sáng chế và bảo vệ đa dạng thực vật
2002: Nông nghiệp: bắt đầu tiến hành đàm phán, thuộc Chương trình phát triển Doha; Dịch vụ: Bắt đầu một loạt các cuộc đàm phám mới, thuộc chương trình phát triển Doha; Ràng buộc thuế quan: xem xét lại khái niệm ‘nhà cung cấp chính’ tại điều 28 trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại về quyền của người tham gia đàm phán đối với việc sửa đổi ràng buộc; Sở hữu trí tuệ: Lần đầu tiên đã có kiểm tra định kỳ (2 năm một lần) việc thực thi hiệp định
2002: Dệt may: bắt đầu giai đoạn đầu tiên (1-1)
2005: Dệt may: áp dụng hoàn toàn trong khuôn khổ GATT và chấm dứt thời gian hiệu lực của hiệp định (1-1)
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)