1. Hiểu thế nào về Hiệp định SPS?

Hiệp định SPS (Sanitary and Phytosanitary), hay còn được gọi là Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật, được ký kết vào năm 1994 bởi các thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Hiệp định SPS bao gồm tổng cộng 14 Điều và 03 Phụ lục. Hiệp định này áp dụng cho tất cả các biện pháp vệ sinh động và thực vật có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thương mại quốc tế. Các biện pháp như vậy được xây dựng và áp dụng theo các quy định được nêu trong Hiệp định.

Mục tiêu chính của Hiệp định SPS là nâng cao sức khoẻ của con người, động vật và thực vật tại tất cả các nước thành viên. Hiệp định này nhằm đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh được thực hiện một cách hiệu quả và nhất quán, nhằm ngăn chặn sự lây lan của các bệnh tật và sâu bệnh có thể gây hại đến sức khoẻ con người, động vật và thực vật. Đồng thời, Hiệp định SPS cũng nhằm đảm bảo rằng các biện pháp này không gây cản trở không cần thiết đến thương mại quốc tế.

Theo Hiệp định SPS, các nước thành viên phải thực hiện các biện pháp kiểm dịch thông qua việc xác định và đánh giá rủi ro, thiết lập các quy chuẩn và quy tắc kỹ thuật, và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và giám sát. Các biện pháp này cần được thiết kế và thực hiện dựa trên các quy định và hướng dẫn của Hiệp định SPS, đồng thời phải được thông báo và công khai để tạo ra sự minh bạch và tin cậy trong thương mại quốc tế.

Hiệp định SPS cũng đề cập đến việc hỗ trợ kỹ thuật và kinh tế cho các nước đang phát triển, nhằm giúp họ nâng cao khả năng thực hiện các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch và tuân thủ quy định của Hiệp định. Điều này giúp tạo ra một môi trường công bằng và bình đẳng trong thương mại quốc tế, đồng thời đảm bảo rằng các biện pháp kiểm dịch không trở thành rào cản phi thương mại hoặc gây thiệt hại không cần thiết đến các quốc gia đang phát triển.

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chịu trách nhiệm giám sát và đảm bảo tuân thủ các quy định của Hiệp định SPS. Các thành viên WTO cần tham gia vào các cuộc đàm phán và hợp tác nhằm đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch và tuân thủ quy định của Hiệp định được thực hiện một cách hiệu quHiệp định SPS (Sanitary and Phytosanitary), hay còn gọi là Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật, đã được các thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thỏa thuận vào năm 1994.

Hiệp định SPS bao gồm tổng cộng 14 Điều và 03 Phụ lục. Hiệp định này áp dụng cho tất cả các biện pháp vệ sinh động và thực vật có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thương mại quốc tế. Các biện pháp như vậy sẽ được xây dựng và áp dụng phù hợp với các điều khoản của Hiệp định này.

Mục tiêu chính của Hiệp định SPS là cải thiện sức khoẻ con người, sức khoẻ động vật và tình hình vệ sinh thực vật tại tất cả các nước thành viên. Hiệp định này được thiết lập để đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh được thực hiện một cách hiệu quả và nhất quán, nhằm ngăn chặn sự lây lan của các bệnh tật và sâu bệnh có thể gây hại đến sức khoẻ con người, động vật và thực vật. Đồng thời, Hiệp định SPS cũng nhằm đảm bảo rằng các biện pháp này không gây cản trở không cần thiết đến thương mại quốc tế.

Theo Hiệp định SPS, các nước thành viên phải thực hiện các biện pháp kiểm dịch bằng cách xác định và đánh giá rủi ro, thiết lập các quy chuẩn và quy tắc kỹ thuật, và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và giám sát. Các biện pháp này cần được thiết kế và thực hiện dựa trên các quy định và hướng dẫn của Hiệp định SPS, đồng thời phải được thông báo và công khai để tạo ra sự minh bạch và tin cậy trong thương mại quốc tế. Hiệp định SPS cũng đề cập đến việc hỗ trợ kỹ thuật và kinh tế cho các nước đang phát triển, nhằm giúp họ nâng cao khả năng thực hiện các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch và tuân thủ quy định của Hiệp định. Điều này giúp tạo ra một môi trường công bằng và bình đẳng trong thương mại quốc tế, đồng thời đảm bảo rằng các biện pháp kiểm dịch không trở thành rào cản phi thương mại hoặc gây thiệt hại không cần thiết đến các quốc gia đang phát triển.

 

2. Thành viên khi tham gia Hiệp định SPS có các quyền và nghĩa vụ nào?

Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các Thành viên tham gia Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) được đề cập tại Điều 2 của Hiệp định năm 1994 như sau:

- Thành viên có quyền sử dụng các biện pháp vệ sinh động-thực vật cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật, miễn là những biện pháp đó không vi phạm các điều khoản của Hiệp định.

- Thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ biện pháp vệ sinh động-thực vật nào chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật. Đồng thời, những biện pháp này phải dựa trên các nguyên tắc khoa học và không được duy trì khi thiếu căn cứ khoa học xác đáng, trừ khi có quy định khác tại khoản 7 của Điều 5 trong Hiệp định SPS.

+ Thành viên phải đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh động-thực vật không phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không căn cứ giữa các Thành viên khi có các điều kiện giống nhau hoặc tương tự nhau, bao gồm cả các điều kiện giữa lãnh thổ của họ và lãnh thổ các Thành viên khác.

+ Các biện pháp vệ sinh động-thực vật phải được áp dụng mà không gây ra sự hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế. Điều này có nghĩa là các biện pháp này không được sử dụng như một cách che giấu hay giới hạn thương mại quốc tế.

- Các biện pháp vệ sinh động-thực vật mà Thành viên áp dụng phải tuân thủ các điều khoản liên quan của Hiệp định SPS. Việc tuân thủ này được coi là phù hợp với nghĩa vụ của các Thành viên theo các quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1994 liên quan đến việc sử dụng các biện pháp vệ sinh động-thực vật, đặc biệt là các quy định của Điều XX(b) trong GATT 1994.

Các quyền và nghĩa vụ này nhằm đảm bảo rằng các biện pháp kiểm dịch động thực vật được áp dụng một cách hợp lý và không gây ảnh hưởng không cần thiết đến thương mại quốc tế. Nó cũng đảm bảo rằng các biện pháp này dựa trên căn cứ khoa học và không có sự phân biệt đối xử hay hạn chế trá hình giữa các thành viên.

 

3. Đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm dịch động thực vật theo Hiệp định SPS 

Việc đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm dịch động thực vật theo Hiệp định SPS được quy định tại Điều 5 của Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật năm 1994 có những quy định chi tiết như sau:

- Các Thành viên đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh động-thực vật của mình dựa trên việc đánh giá, tương ứng với thực tế, các rủi ro đối với cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật, hoặc thực vật, có tính đến các kỹ thuật đánh giá rủi ro do các tổ chức quốc tế liên quan xây dựng nên.

- Khi đánh giá rủi ro, các Thành viên sẽ tính đến chứng cứ khoa học đã có; các quá trình và phương pháp sản xuất liên quan; các phương pháp thanh tra, lấy mẫu và thử nghiệm liên quan; tính phổ biến của một số bệnh hay loài sâu nhất định; các khu vực không có sâu hoặc không có bệnh; các điều kiện sinh thái và môi trường liên quan; và kiểm dịch hoặc cách xử lý khác.

- Khi đánh giá rủi ro đối với cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật, hoặc thực vật và xác định biện pháp áp dụng để có mức bảo vệ động-thực vật phù hợp khỏi rủi ro đó, các Thành viên phải tính đến các yếu tố kinh tế liên quan: khả năng thiệt hại do thua lỗ trong sản xuất hay tiêu thụ khi có sâu hoặc bệnh xâm nhập, xuất hiện hay lan truyền; chi phí của việc kiểm tra hay loại bỏ sâu bệnh trên lãnh thổ Thành viên nhập khẩu; và tính hiệu quả về chi phí của các phương cách hạn chế rủi ro.

- Các Thành viên, khi xác định mức bảo vệ động-thực vật phù hợp, sẽ tính đến mục tiêu giảm tối thiểu tác động thương mại bất lợi.

- Với mục tiêu nhất quán trong việc áp dụng khái niệm mức bảo vệ động-thực vật phù hợp chống lại các rủi ro đối với cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật, hoặc thực vật, mỗi Thành viên sẽ tránh sự phân biệt tùy tiện hoặc vô căn cứ về mức bảo vệ được xem là tương ứng trong những trường hợp khác, nếu sự phân biệt đó dẫn đến phân biệt đối xử hoặc hạn chế trá hình dối với thương mại quốc tế. Các Thành viên sẽ hợp tác tại Uỷ ban nêu tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều 12 để định ra hướng dẫn giúp đưa điều khoản này vào thực tế. Trong khi định ra những hướng dẫn đó, Uỷ ban sẽ xem xét mọi yếu tố liên quan, kể cả tính chất đặc biệt của các rủi ro về sức khoẻ con người mà người ta có thể tự mắc vào.

- Không phương hại đến khoản 2 của Điều 3, khi thiết lập hay duy trì các biện pháp vệ sinh động-thực vật để có mức bảo vệ động-thực vật cần thiết, các Thành viên phải đảm bảo những biện pháp đó không gây hạn chế thương mại hơn các biện pháp cần có để đạt được mức bảo vệ động-thực vật cần thiết, có tính đến tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế.[3]

- Trong trường hợp chứng cứ khoa học liên quan chưa đủ, một Thành viên có thể tạm thời áp dụng các biện pháp vệ sinh động-thực vật trên cơ sở thông tin chuyên môn sẵn có, kể cả thông tin từ các tổ chức quốc tế liên quan cũng như từ các biện pháp vệ sinh động-thực vật do các Thành viên khác áp dụng. Trong trường hợp đó, các Thành viên sẽ phải thu thập thông tin bổ sung cần thiết để có sự đánh giá rủi ro khách quan hơn và rà soát các biện pháp vệ sinh động-thực vật một cách tương ứng trong khoảng thời gian hợp lý.

- Khi một Thành viên có lý do để tin rằng một biện pháp vệ sinh động-thực vật nào đó do một Thành viên khác áp dụng hay duy trì làm kìm hãm, hoặc có khả năng kìm hãm, xuất khẩu của mình và biện pháp đó không dựa trên các tiêu chuẩn, hướng dẫn hay khuyến nghị quốc tế liên quan, hoặc các tiêu chuẩn, hướng dẫn hay khuyến nghị đó không tồn tại, Thành viên duy trì biện pháp đó có thể được yêu cầu và phải giải thích lý do của các biện pháp vệ sinh động-thực vật đó.

 

Xem thêm >> Hiệp định thương mại tự do (FTA) là gì? Nội dung của hiệp định thương mại tự do là gì?

Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!