Ở mỗi trường phái có những mặt tích cực, hạn chế thể hiện trong các chế định về tổ chức, hoạt động và cả những thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn triển khai thực hiện.

 

1. Công chứng La tinh

Công chứng La tinh được tổ chức thành hệ thống từ thế kỷ 20. Thời kỳ đầu, ở mỗi nước trong hệ thống có các tổ chức hành nghề công chứng để đảm bảo nhu cầu của xã hội. Về sau, trước sự phát triển trong hội nhập quốc tế, những tổ chức hành nghề công chứng ở mỗi quốc gia được liên kết lại với nhau trong các tổ chức nội bộ dưới dạng Hội đồng hoặc Hội nghề nghiệp công chứng. Trong quan hệ hợp tác quốc tế, công chứng một số nước thuộc châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á, trong đó có cả một số nước khác như Liên hiệp vương quốc Anh, Đan Mạch đã liên kết, tập hợp, phối hợp với nhau trong một tổ chức được gọi là Liên minh công chứng La tinh quốc tế (dưới đây xin gọi tắt là UINL). Đây là một tổ chức phi chính phủ, tổ chức đại hội lần thứ nhất vào ngày 02 tháng 10 năm 1948 và quyết định đặt trụ sở của tổ chức tại thành phố Buenot Airet (thủ đô của Argentina). UINL phấn đấu và cố gắng để đạt được các mục tiêu trong hoạt động, bao gồm:

  • Đại diện quyền lợi cho các tổ chức công chứng thành viên bên cạnh các tổ chức quốc tế.
  • Nghiên cứu luật pháp công chứng trên các lĩnh vực khác nhau để tạo ra sự đồng bộ trong thực thi pháp luật.
  • Thực hiện hợp tác quốc tế trong hoạt động công chứng đối với các tổ chức quốc tế khác và đối với các nước.
  • Tuyên truyền nguyên tắc hoạt động công chứng theo mô hình La tinh.
  • Thực hiện xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành công chứng dưới dạng tạp chí thường kì.
  • Tổ chức các đại hội thường kì hoặc bất thường (khi xét thấy cần thiết).

Đại hội đồng thành viên là cơ quan cao nhất của UINL. Ngoài ra, bộ máy còn có Hội đồng thường trực, Hội đồng kiểm tra tài chính; Ban thư ký thường trực và một số cơ quan chuyên môn như ủy ban tài chính, ủy ban hợp tác quốc tế...

Công chứng viên thuộc các nước thành viên của UINL được nhà nước bổ nhiệm căn cứ theo tiêu chuẩn và được sử dụng con dấu trong hành nghề theo quy định của pháp luật. Người có thẩm quyền bổ nhiệm công chứng viên là Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nhà nước trao cho công chứng viên quyền công chứng, do đó họ vừa là ủy viên công quyền vừa là người cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Về hoạt động hành nghề, công chứng viên tự tổ chức văn phòng, điều hành hoạt động của văn phòng và trong trường hợp gặp rủi ro thì phải tự chịu trách nhiệm trong việc bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Nhà nước bổ nhiệm công chứng viên để họ hành nghề nhưng phải chịu sự quản lý của nhà nước thông qua việc kiểm soát, giám sát, thanh tra của cơ quan có thẩm quyền, theo luật định.

Việc tổ chức hoạt động nghề nghiệp của các công chứng viên trong hệ thống công chứng La tinh cho phép các công chứng viên có thể liên kết với nhau trong một công ty dân sự để hoạt động nghề nghiệp. Ví dụ, các công chứng viên có thể thành lập công ty hợp danh để cùng chung nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động chuyên môn. Hiện nay, ở Việt Nam cũng đã cho phép công chứng viên hợp tác để tổ chức Văn phòng công chứng và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh (Căn cứ theo khoản 1 - Điều 22 Luật Công chứng 2014 và được thay thế bởi Điều 23, Luật công chứng năm 2024). Về mặt tài chính, hoạt động của công chứng viên, của Văn phòng công chứng theo cơ chế tự chủ hoàn toàn về tài chính và phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp cho nhà nước. Việc thu phí công chứng được nhà nước ấn định mức thu thống nhất trên phạm vi toàn lãnh thổ.

Ngoài chức năng công chứng, công chứng viên trong hệ thống công chứng La tinh có thể là người tham gia việc giám định, môi giới bất động sản và tư vấn cho khách hàng. Trong hoạt động của công chứng Cộng hòa Pháp, vai trò môi giới bất động sản và tư vấn của công chứng viên cho khách hàng rất được chú ý và được đánh giá cao. Các yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu công chứng) sẽ được thỏa mãn qua xem xét, nghiên cứu và quyết định sau khi có sự tư vấn của công chứng viên. Mặt khác, muốn tư vấn tốt, công chứng viên phải tìm tòi, tham khảo và xác định chính xác các vấn đề thuộc nội dung tư vấn liên quan đến đối tượng của hợp đồng, giao dịch cho người yêu cầu công chứng. Thông qua tư vấn, phân tích các vấn đề chưa thống nhất giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, có trường hợp, công chứng viên đã thực sự trở thành người trọng tài cho người yêu cầu công chứng.

Về vai trò này, công chứng viên ở Việt Nam mới chỉ thực hiện được một số công việc dịch vụ, chủ yếu chỉ là việc hướng dẫn thủ tục công chứng, phổ biến quy định của pháp luật, nói rõ quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến việc giao kết hợp đồng... Còn lại, vai trò tham gia giám định và môi giới bất động sản hiện tại không được pháp luật quy định cho công chứng viên thực hiện.

Văn bản công chứng với giá trị là chứng cứ và giá trị thi hành, hơn thế nữa nó là văn bản liên quan đến vận mệnh nghề nghiệp của công chứng viên. Trong hệ thống công chứng La tinh đã có quy định chặt chẽ bắt buộc công chứng viên phải lưu trữ hồ sơ công chứng (bao gồm văn bản công chứng và hồ sơ đi kèm văn bản công chứng).

 

2. Hệ thống công chứng của các nước theo luật án lệ (hay còn gọi là hệ thống Anglo-Sacxon)

Ở hệ thống Anglo-Sacxon, trong hoạt động nghiệp vụ liên quan và khi thực hiện công chứng, công chứng viên không quan tâm đến nội dung văn bản mình công chứng. Vì vậy, đã có ý kiến cho rằng đây là loại hình công chứng hình thức.

Nhà nước không bổ nhiệm chức danh để hoạt động công chứng chuyên nghiệp. Chức năng công chứng được giao cho hộ tịch viên (quan chức hộ tịch), luật sư... Như vậy, họ là các công chứng viên không chuyên nghiệp. Mặt khác, phạm vi các việc công chứng không được quy định rõ ràng, cụ thể.

Khi thực hiện công chứng, công chứng viên chỉ nhận diện đúng người yêu cầu công chứng theo giấy tờ của họ đã xuất trình; xác nhận về thời gian, địa điểm công chứng; ghi nhận trong văn bản về sự kiện pháp lý, sự thỏa thuận của các bên.

Trong nội dung hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản, công chứng viên không quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng; không quan tâm đến thỏa thuận của các bên có trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội không. Vì vậy, công chứng viên không chịu trách nhiệm pháp lý khi có thiệt hại liên quan đến hợp đồng, giao dịch trong trường hợp có phát sinh tranh chấp.Từ thực tế đó, văn bản công chứng không được xếp là nguồn chứng cứ, không có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên tham gia giao dịch như một phán quyết của Tòa án.

Với cách thức tổ chức và phương thức hoạt động như nêu trên, xu hướng hiện nay cho thấy những người hành nghề công chứng trong hệ thống Anglo-Sacxon không được an tâm, họ đang cỏ sự áp dụng một số khía cạnh về nghiệp vụ của công chứng La tinh để đảm bảo an toàn pháp lý hơn cho việc hành nghề của mình.

Trên thực tế, công chứng Anglo-Sacxon đã thể hiện được tính thực dụng và sự mềm dẻo trong hoạt động; tránh được sự chặt chẽ về mặt thủ tục công chứng; kích thích được sự năng động và tính tự quyết của người tham gia giao dịch.

Tuy nhiên, mặt hạn chế được thể hiện rõ nét là sự mờ nhạt trong vai trò quản lý của Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của nghề công chứng. Văn bản công chứng không được coi là nguồn chứng cứ, công chứng viên không được xác định rõ về trách nhiệm vật chất khi có tranh chấp, thiệt hại về hợp đồng, giao dịch do mình công chứng. Độ an toàn pháp lý của giao dịch không được đảm bảo; do đó, tranh chấp, rủi ro dễ phát sinh, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

>> Xem thêm: Các mô hình công chứng trên thế giới? Mô hình công chứng Anglo-saxon?

 

3. Hệ thống công chứng được Nhà nước bao cấp

3.1 Mô hình tổ chức và hoạt động

Hệ thống công chứng được Nhà nước bao cấp chủ yếu được tổ chức và hoạt động ở các nước XHCN trước đây (Đông Âu), châu Á (Trung quốc, Việt Nam...). Nhà nước căn cứ vào yêu cầu về giao dịch dân sự ở từng vùng để quyết định việc thành lập, tổ chức ra các Phòng công chứng Nhà nước. Nhà nước đảm bảo cho hoạt động của Phòng công chứng về các mặt, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất để làm việc, bố trí nhân sự (công chứng viên và người lao động khác trong Phòng), cấp ngân sách để chi lương cho người lao động và kinh phí đảm bảo cho các hoạt động chi tiêu thường xuyên khác, giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động như quyền lợi tinh thần, quyền lợi vật chất, chế độ hưu trí...

Công chứng viên được nhà nước bổ nhiệm để hành nghề chuyên nghiệp, không kiêm nhiệm công việc khác; thực chất, họ là công chức, viên chức nhà nước. Khi thực hiện công chứng, công chứng viên xác định rõ về năng lực hành vi dân sự, về ý chí đích thực của các bên trong thỏa thuận khi tham gia giao dịch; đối tượng của hợp đồng được xác định về mặt pháp lý; nội dung, mục đích của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Trước khi có Luật Công chứng năm 2006, loại hình tổ chức và hoạt động công chứng được Nhà nước bao cấp thể hiện rõ tính chất quyền lực công ở hình thức con dấu, trụ sở, cơ sở vật chất Phòng công chứng là tài sản công, công chứng viên là công chức nhà nước. Đổ trở thành công chứng viên, ngoài các tiêu chuẩn do pháp luật quy định, người được xem xét để bồ nhiệm công chứng viên không cần phải có khả nãng về tài chính liên quan đến việc hành nghề, về mặt này, khác với công chứng viên ở mô hình La tinh, họ phải có khả năng về tài chính để tổ chức Văn phòng và tham gia vào công ty dân sự để hợp tác làm việc, về quy định và thực hiện việc thu phí công chứng được thống nhất trên toàn lãnh thổ. Giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được xác định rõ.

 

3.2 Hạn chế của mô hình công chứng được Nhà nước bao cấp

Loại hình công chứng được Nhà nước bao cấp về tổ chức và hoạt động đã bộc lộ rõ một số hạn chế:

  1. Công chứng viên thực chất là công chức, viên chức Nhà nước cho nên về chế độ chính sách đã có Nhà nước đảm bảo, hàng tháng mức lương ổn định. Vì vậy, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động nghề nghiệp không được phát huy.
  2. Tài sản công không được coi trọng và giữ gìn chu đáo, khi có hư hỏng lại được thay thế tài sản khác mua sắm bằng tiền ngân sách; sử dụng tài sản lãng phí, trách nhiệm không đánh trực tiếp vào túi tiền của cá nhân nào.
  3. Điều kiện (thủ tục) công chứng bị coi là cứng nhắc có phần không phù hợp và đáp ứng các giao dịch về dân sự, kinh tế thông qua hình thức giao dịch điện tử.
  4. Trước đây, do chưa quy định về việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên, việc xác định trách nhiệm và bồi thường thiệt hại khi có rủi ro xảy ra cho người yêu cầu công chứng còn nhiều khó khăn. Nay, theo quy định tại khoản 2- Điều 37 Luật Công chứng năm 2014 (về việc mua bảo hiểm của công chứng viên đang hành nghề) và khoản 3, Điều 19 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 quy định chi tiết và hưởng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng về việc mua bảo hiểm đối với công chứng viên của Phòng Công chứng Nhà nước; Điều 38 về bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng; theo đó, việc giải quyết về trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên đã được xác định cụ thể.

Việc tổ chức và hoạt động công chứng theo hệ thống được Nhà nước bao cấp đã được cơ bản chuyển đổi theo hệ thống công chứng La tinh kể từ sau năm 1993 khi hệ thống các nước XHCN lâm vào khủng hoảng ở Đông Âu. Riêng ở Việt Nam, sau khi có Luật Công chứng năm 2014 và chủ trương xã hội hóa công chứng, ở từng địa phương, các Sở Tư pháp đã xây dựng kế hoạch và hướng dẫn lập đề án nhằm chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng theo lộ trình do ủy ban nhân dân cấp tỉnh xác định.

Luật Minh Khuê (tổng hợp)