Mục lục bài viết
1. Khái quát về trọng tài thương mại.
Trọng tài với vai trò là một phương thức giải quyết tranh chấp tư có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. Có nhiều quan điểm về trọng tài dựa trên bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp này. Theo JAMES and NICHOLAS, trọng tài được coi như một tiến trình tư được mở ra theo sự thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một Hội đồng Trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên. Hội đồng Trọng tài này là kết quả của sự lựa chọn của chính các bên tranh chấp hoặc thông qua những đại diện của họ, và chính các bên cũng sẽ là những người thiết lập nên các thủ tục mà Hội đồng Trọng tài phải áp dụng để giải quyết tranh chấp. Với một quan điểm tương tự, OKEZIE CHUKWUMERIJE cho rằng: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên lựa chọn hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục khi những tổ chức nhất định được lựa chọn bởi chính các bên”.
2. Những đặc điểm của trọng tài thương mại
Đặc điểm cơ bản dưới đây của trọng tài như sau:
+ Thứ nhất: Quá trình trọng tài thường diễn ra trên cơ sở thoả thuận trọng tài được thiết lập bởi các bên tranh chấp.
Tức là khi xảy ra tranh chấp các bên có thể thỏa thuận với nhau về phương thức giải quyết, nếu chọn trọng tài thì hai bên phải đồng ý, hoặc khi xác lập hợp đồng hai bên có thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Thứ hai: Thủ tục trọng tài được xác định bởi các bên tranh chấp và phổ biến là một thủ tục xét xử kín được điều khiển bởi hội đồng trọng tài gồm một hoặc một số lẻ khác các trọng tài viên. So với Tòa án phải xét xử công khai, công bằng, kịp thời minh bạch trừ các vụ việc có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì việc xét xử kín của Trọng tài là một ưu điểm lớn cho những chủ thể tranh chấp
+ Thứ ba: Quyết định của hội đồng trọng tài về toàn bộ vụ tranh chấp có hiệu lực chung thẩm, buộc các bên phải thực hiện. Quyết định chung thẩm là thuật ngữ dùng để chỉ trường hợp tòa án xét xử hoặc ra quyết định về việc giải quyết vụ án đã qua hai cấp xét xử giải quyết (tức là đã giải quyết theo thủ tục phúc thẩm). Trong trường hợp này, các đương sự không có thẩm quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định đã giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. So với tòa án bị đơn, nguyên đơn hay viện kiểm sát có thể kháng cáo kháng nghị
3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài thương mại
Xu hướng chung trong pháp luật của các nước trên thế giới hiện nay là mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Theo đó, trọng tài không còn bị bó hẹp phạm vi giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại mà đã mở rộng sang giải quyết nhiều tranh chấp tư khác.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, tranh chấp thương mại nói chung, tranh chấp thương mại quốc tế nói riêng vẫn là những tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nhiều nhất, phổ biến nhất. Ở đây có thể đặt ra câu hỏi: tại sao pháp luật của không ít quốc gia trên thế giới trước đây, cũng như các điều ước quốc tế đều quy định là “trọng tài thương mại ” chứ không phải là họng tài trong các lĩnh vực khác? Sự thật là, ở thời kỳ đầu hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp trọng tài với tư cách là một biện pháp giải quyết tranh chấp tư, hầu hết các nước trên thế giới chỉ cho phép giải quyết bằng phương thức trọng tài các tranh chấp thương mại mà chủ yếu là tranh chấp từ hợp đồng thương mại. Đối với các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác như: hôn nhân gia đình (chẳng hạn việc chia tài sản giữa vợ và chồng), sở hữu trí tuệ (không liên quan tới tài sản), tranh chấp liên quan tới quyền của người thứ ba trong một vụ phá sản, tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh, tranh chấp lao động, thì nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc giải quyết tại tòa án hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất định vì những tranh chấp đó được coi là vấn đề thuộc chính sách công. Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ về vấn đề thẩm quyền của trọng tài dù rằng không phổ biến.
Có thể nói, trọng tài ngày càng được sử dụng rộng rãi để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, lao động, đầu tư, thương mại.Thực tiễn xét xử tranh chấp có yếu tố nước ngoài thường đề cập tới khái niệm trọng tài quốc tế. Đây là loại trọng tài có những đặc điểm pháp lý riêng khác với trọng tài nội địa. Trọng tài quốc tế với vai trò là một phương thức giải quyết tranh chấp tư, chắc chắn phải là một trọng tài, nó luôn mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Nhưng một trọng tài chỉ được coi là trọng tài quốc tế nếu nó có tính “quốc tế'
Thuật ngữ "quốc tế" được sử dụng để chỉ ra sự khác nhau giữa trọng tài thuần túy nội địa và trọng tài có những yếu tố vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Các trọng tài nội địa thường bắt buộc phải tuân theo những quy định về trọng tài của quốc gia đó như: tố tụng trọng tài, luật điều chỉnh nội dung tranh chấp, ngôn ngữ trọng tài. Ví dụ: Theo pháp luật trọng tài Việt Nam, trọng tài giải quyết tranh chấp nội địa chỉ được xét xử băng tiếng Việt, trừ trường hợp tranh chấp có ít nhất một bên tham gia là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, với trọng tài quốc tế thì điều này là không nhất thiết. Có nghĩa là, trọng tài quốc tế có thể tiến hành phiên xử và đưa ra phán quyết ở nước ngoài trên cơ sở một trình tự tố tụng, ngôn ngữ và luật áp dụng cho hanh chấp do chính các bên tranh chấp thỏa thuận.
Hiện nay, học lý cũng như thực tiễn trọng tài thường đề cập tới hai yếu tố chính, hoặc được sử dụng riêng biệt, hoặc được sử dụng kết hợp với nhau để xác định tính quốc tế của trọng tài đó là: tính chất của tranh chấp và đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp.
4. Tính chất của tranh chấp (Nature of the dispute)
Bản chất tranh chấp các điều khoản mẫu là bất kỳ tranh chấp nào phát sinh từ hoặc liên quan đến Thỏa thuận này , bao gồm nhưng không giới hạn , việc giải thích bất kỳ điều khoản nào của Thỏa thuận này hoặc việc vi phạm , chấm dứt hoặc mất hiệu lực của Thỏa thuận này ("Tranh chấp") sẽ được giải quyết riêng và cuối cùng bằng trọng tài nếu không nếu không được giải quyết theo Phần
Nếu tranh chấp được giải quyết bởi trọng tài mang tính chất quốc tế thì trọng tài đó sẽ là trọng tài quốc tế. Xu hướng chính hiện nay trên thế giới giải thích về tính chất quốc tế của tranh chấp khá rộng rãi. Theo Điều 1 Quy tắc trọng tài năm 1998 hay Quy tắc trọng tài có hiệu lực từ 01/01/2012 của ICC, thì Toà án Trọng tài Quốc tế ICC có chức năng giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp có hoặc không có tính chất quốc tế phù hợp với những quy tắc trọng tài của ICC. Mặc dù cho tới hiện nay, không có điều khoản nào trong quy tắc trọng tài của ICC giải thích thế nào là “tranh chấp có tính chất quốc tế”?, tuy nhiên trong các sách hướng dẫn về trọng tài được xuất bản trước đó bởi ICC có đề cập tới những nội dung về tính chất quốc tế của một tranh chấp như sau:
Tính quốc tế của trọng tài không có nghĩa là buộc các bên quan hệ nhất định phải có quốc tịch khác nhau. Hợp đồng vẫn có thể mở rộng phạm vi ra khỏi biên giới quốc gia, khi, ví dụ như, một hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể cùng quốc tịch nhưng việc thực hiện hợp đồng lại ở một nước khác, hoặc trong trường hợp, hợp đồng được ký kết giữa một nhà nước và một chi nhánh của một công ty nước ngoài kinh doanh trên lãnh thổ nước đó. Trọng tài quốc tế chỉ có chức năng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, các tranh chấp trong các lĩnh vực khác như tranh chấp đường. biên giới trên đất liền, trên biển... không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài quốc tế mà được giải quyết thông qua thương lượng giữa các quốc gia hoặc thông qua khâu trung gian của tổ chức quốc tế hay của một nước thứ ba.
Như vậy có thể thấy rằng, ICC đã đưa ra một sự giải thích khá rộng về tính chất “quốc tế” của quan hệ sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Một quan hệ sẽ được coi là có tính chất quốc tế nếu nó có liên quan tới bất kỳ yếu tố nước ngoài nào như: quan hệ phát sinh ở nước ngoài, thực hiện ở nước ngoài, các bên tham gia quan hệ ở các nước khác nhau, có quốc tịch khác nhau v.v.
Một sự giải thích rộng rãi như vậy cũng được tìm thấy trong Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà Pháp năm 1981. Điều 1492 Bộ luật này quy định: “Một trọng tài sẽ được coi là trọng tài quốc tế nếu nó giải quyết các tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế”. Tuy nhiên, điều khoản này đã không định nghĩa “tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế ” là gì? Việc giải thích cụm từ này lại được thực hiện bởi Toà án Thượng thẩm Pháp trong những phán quyết của nó: “Định nghĩa này sẽ bao hàm sự di chuyển hàng hóa hay tiền tệ từ nước này tới nước khác, hoặc những yếu tố khác như quốc tịch của các bên, địa điểm ký kết hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng v.v.”
Có thể thấy rằng, tương tự như cách giải thích trong các tài liệu của ICC, tính chất quốc tế của một tranh chấp được thực tiễn pháp lý ở Cộng hoà Pháp quy định rất rộng, với nhiều căn cứ khác nhau như: nơi giao kết hợp đồng ở nước ngoài, nơi thực hiện hợp đồng ở nước ngoài, hàng hoá di chuyển qua biên giới, các bên tham gia hợp đồng không cùng quốc tịch, việc thanh toán hợp đồng liên quan tới hơn một quốc gia v.v.
5. Đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp (Identity of the parties)
Bất kỳ sự phụ thuộc nào vào thông tin liên lạc với một người không phải là người được liệt kê bên dưới đều chịu rủi ro của riêng bên hiểu và thừa nhận rằng không viên chức, nhân viên, thành viên ủy ban , đại diện hoặc thành viên hội đồng nào có quyền hạn thực tế hoặc rõ ràng để sửa đổi bằng miệng bất kỳ điều khoản hoặc điều kiện nào của Giấy phép này.
Đặc điểm chủ thể tham gia tranh chấp này thường được xác định dựa vào hai dấu hiệu chính đó là: quốc tịch của các chủ thể hoặc trụ sở thương mại của các chủ thể hay nơi cư trú thường xuyên của họ.
Điều 1.1 Công ước châu Âu 1961 về Trọng tài Thương mại Quốc tế quy định: “Công ước này sẽ được áp dụng đối với:
- Thoả thuận trọng tài được ký kết với mục đích giải quyết tranh chấp phát sinh từ thương mại quốc tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có nơi cư trú thường xuyên hoặc trụ sở ở các nước ký kết khác nhau...”.
Tương tự, Điều 176 Bộ luật Tư pháp Quốc tế 1987 của Liên bang Thụy Sĩ giới hạn việc áp dụng Chương 12 của Bộ luật (Chương về Trọng tài Quốc tế) đối với những vụ việc mà địa điểm trọng tài ở Thụy Sĩ và vào thời điểm ký kết thỏa thuận trọng tài, ít nhất một bên chủ thể không cư trú ở Thụy Sĩ.
Ngoài việc sử dụng riêng lẻ từng yếu tố, hoặc là đặc điểm của chủ thể hoặc là tính chất của tranh chấp để xác định tính quốc tế của trọng tài, chúng ta còn bắt gặp việc sử dụng kết hợp hai yếu tố này với nhau. Luật Mẫu của UNCITRAL năm 1985 (được sửa đổi năm 2006) về Trọng tài Thương mại Quốc tế là một ví dụ điển hình. Điều 1 Luật này quy định:
“Trọng tài là quốc tế nếu:
- Các bên tham gia thoả thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thỏa thuận trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc
- Một trong những địa điểm sau đây được đặt ở ngoài quốc gia nơi các bên có trụ sở kinh doanh;
+Nơi tiến hành trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo thoả thuận trọng tài;
+Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất;
- Các bên đã thỏa thuận rõ ràng vấn đề chủ yếu của thỏa thuận trọng tài liên quan đến nhiều nước”.
Như vậy, theo quy định của Điều 1 (3)(a) thì tính quốc tế của trọng tài có liên quan tới yếu tố chủ thể, trong khi đó Điều l(3)(b)(ii) có liên quan tới tính chất quốc tế của tranh chấp.
Tóm lại, trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp tư mà sự bắt đầu của nó dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp nhằm giải quyết tranh chấp thương mại giữa các bên tranh chấp với nhau bởi một hội đồng trọng tài gồm một hoặc một số lẻ khác các trọng tài viên trên cơ sở trình tự thủ tục do các bên tranh chấp thỏa thuận chọn ra