Tình tiết phạm tội là tình tiết thực tế của vụ án được sử dụng để xác định hành vi đã thực hiện trong vụ án cấu thành tội gì.

Khi quy định các tội phạm cụ thể luật hình sự xác định các dấu hiệu của mỗi tội và các dấu hiệu đó cho phép phân biệt giữa tội này với tội khác. Đó là các dấu hiệu định tội. Khi áp dụng luật, người áp dụng phải so sánh tình tiết thực tế của vụ án với các dấu hiệu định tội của tội cụ thể để xác định người phạm tội đã phạm tội đó. Tình tiết thực tế thoả mãn dấu hiệu định tội được gọi là tình tiết định tội.

Như vậy, có sự khác nhau giữa tình tiết định tội với dấu hiệu định tội. Tuy nhiên, trong thực tế, sự phân biệt này nhiều khi không được chú ý.

Luật Minh Khuê phân tích chi tiết hơn nữa về khái niệm tình tiết phạm tội và các vấn đề pháp lý liên quan như sau:

 

1. Phạm tội là gì?

Theo ngôn ngữ thông thường, phạm tội là hành vi trái pháp luật, sẽ bị cơ quan nhà nước áp dụng một số hình thức xử phạt nhằm ngăn chặn, răn đe người thực hiện hành vi phạm tội. Phạm tội là những hành vi thực hiện trái với quy định pháp luật, là một hoặc nhiều hành động được thực hiện và cấu thành tội phạm. Hành vi có bị coi là phạm tội hay không phải trải qua quá trình xem xét, điều tra, truy tố, xét xử mới xác định được hành vi phạm tội đó là tội phạm. Để có thể coi là tội phạm thì chủ thể thực hiện hành vi phải đáp ứng đủ các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm các yếu tố lỗi của hành vi, gây nguy hiểm cho xã hội, thực hiện hành vi bởi người hoặc pháp nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và xâm phạm đến quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ. 

Phạm tội được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Hành vi phạm tội bằng hành động của cá nhân, cơ quan, tổ chức là gây ra thiệt hại nghiêm trọng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Chẳng hạn như: hành động cầm dao giết người, cướp tài sản, trộm cắp,... Phạm tội bằng việc không thực hiện hành động gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội nói chung và lợi ích cá nhân nói riêng. Chẳng hạn như: Không tố giác tội phạm, có khả năng cứu giúp nhưng vẫn bỏ mặc người đang gặp nguy hiểm tính mạng,... Những hành vi phạm tội đều gây nguy hiểm cho xã hội và ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể khác, từ những hành vi phạm tội này sẽ là yếu tố để xem xét cấu thành tội phạm và có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

2. Tình tiết phạm tội là gì?

Tình tiết phạm tội là những chi tiết, diễn biến thực tế xảy ra của một vụ án được sử dụng để xác định hành vi đã thực hiện trong vụ án cấu thành tội phạm nào hoặc những tình tiết có khả năng làm tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội. 

Ví dụ: Trong một vụ án giết người, ông A có xảy ra cãi vã với anh B mà không kiềm chế được cảm xúc, đâm dao vào cánh tay anh B. Anh B đã xin tha nhưng ông A vẫn không bỏ qua và tiếp tục đâm nhiều nhát vào anh B khiến anh B tử vong. Không dừng ở đó, ông B còn tiếp tục cầm dao vào nhà giết con của anh B để bịt đầu mối rồi bỏ trốn. Khi bị cơ quan chức năng bắt giữ và lấy lời khai thì ông A không biết hối lỗi và nói do anh B đáng phải chết.

Vậy trong tình huống này những hành vi như việc ông A đâm dao nhiều nhát dao vào anh B, không hối lỗi với hành vi của mình,... được coi là những tình tiết phạm tội, hành vi này cấu thành tội giết người với lỗi cố ý. Từ việc ông A giết người với lỗi cố ý đã cấu thành tội giết người, đồng thời ông A còn giết con của anh B và không ăn năn, hối lỗi với hành vi mình đã gây ra, tình tiết này thuộc tình tiết tăng nặng trong tội giết người là giết 02 người trở lên. Tuy nhiên, nếu trong quá trình điều tra, xét xử, ông A đưa ra được chứng cứ về việc bản thân bị người khác ép thực hiện giết người, trước đây cũng là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu. Vậy đây là những tình tiết có thể được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 

 

3. Quy định về tình tiết phạm tội

Tình tiết phạm tội không được quy định rõ ràng, cụ thể trong Bộ luật hình sự cũng như các văn bản luật liên quan. Tuy nhiên, có thể hiểu, tình tiết phạm tội là chi tiết, diễn biến xảy ra từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc hành vi phạm tội và hành vi này cấu thành tội phạm. Vậy, những quy định để có thể làm căn cứ kết luận tình tiết phạm tội thuộc loại tội phạm nào và xử lý theo khung hình phạt nào như sau:

 

3.1. Những tình tiết phạm tội cấu thành tội phạm

Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự gồm 04 yếu tố: khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố sẽ không cấu thành tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Những hành vi, diễn biến trong 04 yếu tố cấu thành tội phạm này đều là tình tiết phạm tội trong một vụ án.

- Khách thể

Khách thể của tội phạm là yếu tố cấu thành tội phạm quan hệ xã hội bị xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Khách thể của tội phạm phản ánh qua những đối tượng tác động của tội phạm như: con người, vật chất, các hoạt động bình thường của chủ thể. Khi những đối tượng này bị xâm phạm, gây ra thiệt hại và hậu quả thì sẽ xác định tội phạm nào gây ra hậu quả hay là đe dọa gây ra hậu quả. 

- Mặt khách quan

Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, biểu hiện trên hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm với hậu quả. Hành vi khách quan phải có tính thiệt hại cho xã hội, đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Thiệt hại có thể biểu hiện dưới nhiều dạng như: thiệt hại về vật chất, tinh thần, thể chất hay những thay đổi khác khiến chủ thể bị rơi vào tình trạng nguy hiểm. Những thiệt hại này phải xuất phát từ hành vi khách quan, chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không đều dựa vào mức độ hậu quả của hành vi họ gây ra, trách nhiệm bồi thường đối với người bị hại là toàn bộ hoặc một phần.

Ngoài ra, biểu hiện khách quan còn thể hiện ở thời gian, địa điểm, công cụ,... Người phạm tội có thể sử dụng vũ khí nguy hiểm như dao, búa, kéo,... dùng các phương pháp thủ đoạn như lừa đảo, ngược đãi, uy hiếp,... hoặc thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội như nửa đêm trên đường vắng dễ dàng xảy ra cướp giật, lười lao động và không có phí sinh hoạt thường dễ dẫn đến trộm cắp,...

- Chủ thể

Chủ thể của tội phạm là con người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi xâm phạm đến khách thể của tội phạm. Những chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự thì mới được coi là tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có năng lực điều khiển hành vi và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định.

- Mặt chủ quan

Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Lỗi thể hiện ở thái độ, tâm lý của chủ thể biểu hiện dưới dạng thực hiện hành vi là cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra và gây thiệt hại cho chủ thể khác hoặc người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn để mặc cho hậu quả xảy ra. Xét về lỗi vô ý, người thực hiện hành vi phạm tội thấy được thiệt hại có thể xảy ra nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Hoặc người phạm tội có trách nhiệm và nghĩa vụ thấy trước hậu quả nhưng vì cẩu thả, thiếu thân trọng mà gây ra thiệt hại.

Vậy những hành vi trong những yếu tố cấu thành tội phạm là những tình tiết phạm tội quan trọng khi xác định tội phạm hình sự và truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi xem xét đến một vụ việc, những yếu tố cấu thành tội phạm sẽ là các tình tiết quan trọng đã xảy ra trên thực tế và được tiếp tục điều tra, xem xét để định tội. Trong quá trình điều tra, xét xử, thậm chí là khi đã có quyết định của Tòa án mà có chứng cứ về những tình tiết phạm tội mới thì có thể bổ sung thêm vào vụ án hoặc làm căn cứ cho việc kháng cáo, kháng nghị.

 

3.2. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Căn cứ Điều 51 và Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những điều khoản của quy định này chính là tình tiết phạm tội có lợi hoặc gây bất lợi cho chủ thể phạm tội, ảnh hưởng đến việc xác định khung hình phạt cho chủ thể phạm tội. 

Các tình tiết giảm nhẹ được phân thành ba nhóm khác nhau:

- Những tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như: Thiệt hại, hậu quả xảy ra; đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi; những tình tiết phạm tội ảnh hưởng đến lỗi của người thực hiện. 

- Những tình tiết liên quan đến thái độ, khả năng cải tạo của người phạm tội như: Người phạm tội tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi; lập công chuộc tội; giúp cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra,...

- Những tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội: Người già, phụ nữ có thai; người phạm tội là thương binh,...

Những tình tiết giảm nhẹ nhiều hay ít tùy thuộc vào những tình tiết thuộc về phương diện khách quan, chủ quan, nhân thân cấu thành tội phạm của người phạm tội. Ngoài những tình tiết giảm nhẹ theo luật định, Luật hình sự cho phép Tòa án có thể coi những tình tiết hợp lý khác là tình tiết giảm nhẹ. Lý do thêm tình tiết giảm nhẹ sẽ được ghi trong bản án, điều này là hợp lý bởi pháp luật không thể dự liệu hết những tình tiết trong sự việc xảy ra trên thực tế. Điều này thể hiện sự linh hoạt trong việc áp dụng luật để đảm bảo quyền lợi cho người phạm tội có tình tiết hợp lý để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng được chia làm ba nhóm sau:

- Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như: Tình tiết phản ánh mức độ lỗi, thiệt hại; tình tiết phản ánh đối tượng bị xâm phạm là đối tượng đặc biệt; phản ánh tình chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

- Những tình tiết cho thấy người phạm tội bị ảnh hưởng bởi quan điểm, khả năng giáo dục, cải tạo như: có hành vi trốn tránh trách nhiệm, che giấu tội phạm, thủ đoạn phạm tội xảo quyệt,...

- Những tình tiết về đặc điểm nhân thân của nhân thân người phạm tội như: tái phạm, tái phạm nguy hiểm; phạm tội nhiều lần,...

Những tình tiết phạm tội này sẽ làm tăng mức độ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong khung hình phạt cụ thể. Những tình tiết được xác định là có mức độ nguy hiểm cao sẽ được coi là tình tiết tăng nặng trong truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, tránh việc lạm dụng để làm xấu đi tình trạng pháp lý của người phạm tội khi chưa có căn cứ chính xác. Vậy, ngoài những quy định về tình tiết tăng nặng tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đối, bổ sung năm 2017), tòa án sẽ không được coi những tình tiết khác để áp dụng tình tiết tăng nặng cho người phạm tội. 

 

3.3. Tình tiết định tội và tình tiết định khung

Tình tiết định tội là tình tiết thể hiện dấu hiệu đặc trưng, điển hình của một loại tội phạm nhất định, là cơ sở để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Chẳng hạn như đối với tội trộm cắp tài sản thì  "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng..." là tình tiết định tội tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nếu chủ thể thực hiện hành vi trộm cắp với tài sản từ 2.000.000 đồng trở lên đã có đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp.

Tình tiết định khung phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên hoặc giảm xuống so với những tình tiết cơ bản cấu thành tội phạm cụ thể. Tình tiết định khung là dấu hiệu bắt buộc để xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội gây thiệt hại cho xã hội. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng sẽ ảnh hưởng đến tình tiết định khung của tội phạm. Nếu có tình tiết tăng nặng, khung hình phạt cũng sẽ áp dụng khung cao hơn, ngược lại, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ có thể được xem xét giảm khung hình phạt. 

 

4. Tội phạm và phạm tội

Căn cứ Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nêu rõ về khái niệm tội phạm như sau:

"1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự".

Về mặt pháp lý, tội phạm là những hành vi thông qua đặc điểm như: lỗi của chủ thể, gây nguy hiểm cho xã hôi, do người có  năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm phạm quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.

- Gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội: Thiệt hại, hậu quả, mức nguy hiểm xảy ra là căn cứ quan trọng trong việc phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm khác, là căn cứ quan trọng để xác định hình phạt áp dụng. Để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội thường được cân nhắc, xem xét, đánh giá một cách toàn diện. Từ những phương tiện, công cụ thực hiện tội phạm, mức độ gây ra thiệt hại, mức độ lỗi, động cơ, mục đích, nhân thân, hoàn cảnh, quan hệ xã hội bị xâm phạm, đến những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đều được cân nhắc kỹ các tình tiết để xác định tội phạm.

- Lỗi chủ thể: Tội phạm có thể thực hiện do lỗi cố ý hoặc vô ý. Có thể họ đã biết trước những hậu quả có thể xảy ra và vi phạm pháp luật nhưng họ vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Cho dù họ không cố ý thực hiện nhưng họ có đầy đủ khả năng và điều kiện để biết hoặc có thể lựa chọn phương án khác nhưng họ không thực hiện điều đó mà vẫn để mặc thiệt hại xảy ra.

- Trái với quy định pháp luật: Những hành vi được coi là tội phạm đã được quy định đầy đủ trong Bộ luật hình sự và nếu vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy, nếu chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng không đủ yếu tố quy định trong luật hình sự thì không bị coi là tội phạm. 

- Chịu hình phạt: Hình phạt của tội phạm đã có những quy định rõ ràng và khung hình phạt cụ thể trong bộ luật hình sự. Tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà có những hình thức xử phạt và khung hình phạt khác nhau. Các hình thức xử lý hình sự trong bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng quyền lực nhà nước.

Trong khi đó, phạm tội là hành động thực hiện tội phạm, phạm tội là hành vi có dấu hiệu của tội phạm, sau khi điều tra, xét xử mới xác định những hành vi phạm tội đó thuộc tội phạm nào trong Bộ luật hình sự. Không phải hành vi phạm tội nào cũng câu thành tội phạm, mà phải có đủ những yếu tố cấu thành tội phạm thì mới được coi là tội phạm. Chẳng hạn như việc người mất năng lực trách nhiệm hình sự giết người có hành vi phạm tội nhưng không thỏa mãn yếu tố về mặt chủ thể để cấu thành tội phạm giết người và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.