1. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là gì?

Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là tội phạm đặc biệt nguy hiểm nằm trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Tính nguy hiểm của tội phạm này không chỉ thể hiện thông qua hành vi khách quan xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, uy hiếp tinh thần mà còn bởi nó tiềm ẩn những hậu quả lâu dài cho xã hội
Khủng bố là hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe tự do thân thể của nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội, hoặc công dân, nhằm chống chính quyền nhân dân.
Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể con người; đe dọa xâm phạm tính mạng hoặc hành vi khác uy hiếp tinh thần người khác; thành lập, tham gia tổ chức khủng, bố, tổ chức tài trợ khủng bố; cưỡng ép, lôi kéo tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng lổ nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân theo quy định tại Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017?

Điều 113. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
1. Người nào nhằm chống chỉnh quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bổ;
b) Cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bổ; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố;
c) Xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của cán bộ, công chức hoặc người khác; chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cả nhân;
d) Tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tẻ chức, cá nhân.
3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có hành vỉ khác uy hiếp tỉnh thần của cán bộ, công chức hoặc người khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Khủng bổ cá nhân, tố chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế nhằm gây khó khăn cho quan hệ quổc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì cũng bị xử phạt theo Điều này.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. .

3. Bình luân về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân?

Điều luật gồm 5 khoản. Trong đó, các khoản từ khoản 1 đến khoản 4 quy định dấu hiệu pháp lý của 4 trường họp phạm tội của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân cùng các khung hình phạt tương ứng và khoản 5 quy định khung hình phạt cho trường hợp chuẩn bị phạ

3.1 Về mặt khách quan của tội phạm:

Khoản 1 của điều luật quy định trường hợp phạm tội thứ nhất của tội khủng bố nhàm chống chính quyền nhân dân. Đây là trường hợp phạm tội xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chống chính quyền nhân dân. Hành vi khách quan được khoản 1 mô tả là hành vi xâm phạm tính mạng của người khác và hành vi phá hủy tài sản. Đối tượng của hành vi xâm phạm tính mạng có thể là cán bộ, công chức hoặc người Việt Nam khác. Đối tượng của hành vi phá hủy tài sản có thể là tài sản của cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc của người Việt Nam. Trong đó, hành vi phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là hành vi mới được quy định bổ sung trong BLHS năm 2015.
Như trên đã đề cập, có một số hành vi mới được bổ sung vào Điều 113 bộ luật hình sự 2015 sủa đổi 2017. Việc tội phạm hóa các hành vi ấy là để phù hợp với quy định của Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013 của Nhà nước ta, nội luật hóa quy định có liên quan của các điều ước quốc tế về chống khủng bố, chống tài trợ khủng bố mà Việt Nam là thành viên và đáp ứng yêu cầu phòng, chống khủng bố trong tình hình mới. Tuy nhiên, xét về kỹ thuật lập pháp cho thấy, việc bổ sung các hành vi thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố, cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố vào Điều luật này với tên tội danh là tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là chưa thực sự khoa học. Bởi lẽ: thứ nhất, các hành vi nêu trên hoàn toàn khác, độc lập với hành vi khủng bố được nêu trong tên của điều luật, đó là hành vi khủng bố, tức là hành vi phạm tội khủng bố của người thực hành. Trong khi đó, các hành vi thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố; cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố không phải là hành vi phạm tội khủng bố của người thực hành. Hai là, các hành vi phạm tội nêu trên có tính chất, mức độ nguy hiểm rất khác nhau (hành vi thành lập, tham gia tổ chức khủng bố nguy hiểm hơn hành vi thành lập, tham gia tổ chức tài trợ khủng bố; hành vi thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn hành vi cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố) nhưng lại được quy định tại cùng một khoản (khoản 2) với cùng một khung hình phạt là không phù hợp. Ba là, quy định của khoản 2 chưa có sự phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng hành vi phạm tội (ví dụ; cùng là hành vi thành lập tổ chức khủng bố nhưng sẽ có các trường hợp phạm tội với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau như tổ chức được thành lập với quy mô, số lượng người tham gia, trang bị phương tiện, vũ khí…khác nhau, trong khi đó theo quy định thì mọi trường hợp phạm tội đều áp dụng cùng một khung hình phạt). Theo đó, sẽ là khoa học hơn nếu tách ra khỏi điều luật này và xây dựng thành hai điều luật riêng quy định tội phạm đối với hai nhóm hành vi: thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố và nhóm hành vi cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố.
Bên cạnh đó, việc bổ sung hành vi phá hủy, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân vào điều luật quy định về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng, chống khủng bố và phù hợp với quy định của Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013, tương thích với các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên.
-Xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe là trường hợp người phạm tội đã bắt, giữ trái phép cán bộ, công chức hoặc người khác làm con tin để khống chế hoặc dung sức mạnh vật chất tác động vào thân thể của những người đó gây tổn hại về sức khỏe của họ như đánh đập, gây thương tích…Người phạm tội có thể dùng sức mạnh về tinh thần như dọa giết người thân nếu chống lại việc bắt, giữ; cũng có thể dùng vũ lực, sức mạnh cưỡng ép người bị hại để thực hiện hành vi bắt, giữ người. Dù thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện nào thì hành vi xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của người khác nhằm chống chính quyền nhân dân đều là hành vi xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của người khác nhằm chống chính quyền nhân dân đều là hành vi thuộc mặt khách quan của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân theo Điều 113 bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 và người thực hiện hành vi vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa cấu thành tội phạm này.
-Đe dọa xâm phạm tính mạng hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần là trường hợp người phạm tội dùng lời nói hoặc cử chỉ, thái độ làm cho người bị đe dọa có căn cứ cho rằng, nếu họ cứ thực hiện công vụ hoặc nghĩa vụ của công dân thì tính mạng của họ sẽ bị xâm phạm. Trong khi thực hiện hành vi đe dọa xâm phạm tính mạng hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần, người phạm tội lợi dụng tâm lý lo sợ của người bị đe dọa để ép họ thực hiện các yêu cầu khác của mình. Để đánh giá người bị đe dọa ở trạng thái tâm lý thế nào, cần phải căn cứ vào nội dung, hình thức đe dọa; thời gian, hoàn cảnh cụ thể khi hành vi đe dọa đó xảy ra; tương quan giữa người phạm tội với người bị đe dọa. Người phạm tội đe dọa xâm phạm tính mạng con người hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần người bị hại thì sẽ xử lý theo khoản 3 Điều 113 bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017.
Những hành vi phạm tội nêu trên được thực hiện đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế nhằm gây khó khan cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng bị coi là phạm tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và bị xử lý theo khoản 4 Điều 113 bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017.
Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân có thể gây ra hai loại hậu quả:
-Hậu quả trực tiếp: gây chết người, thương tích, tự do thân thể hoặc tinh thần bị xâm hại.
-Hậu quả gián tiếp: thông qua việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần, tự do thân thể của cán bộ, công chức hay người khác, người phạm tội có thể làm suy yếu chính quyền nhân dân. Hậu quả này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tính mạng, sức khỏe, tinh thần của bất cứ người nào (cán bộ, công chức, công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài, người không quốc tịch) và tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế. Theo đó, kể từ khi bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 có hiệu lực thi hành, hành vi khủng bố tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế nhằm gây khó khan cho quan hệ quốc tế của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhần dân theo Điều 113 bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 nếu thõa mãn các dấu hiệu khác nữa cấu thành tội phạm này.
Tội phạm này có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, không phải là dấu hiệu định tội mà chỉ có thể là dấu hiệu trong xem xét quyết định hình phạt.

3.2 Về mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của người phạm tội trong trường hợp này được quy định là lỗi cố ý và mục đích phạm tội là chống chính quyền nhân dân.

3.3 Về mặt chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân trong trường hợp phạm tội thứ nhất, theo Điều 12 bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cho trường hợp phạm tội thứ nhất của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Khoản 2 của điều luật quy định trường hợp phạm tội thứ hai của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân. Hành vi khách quan của trường hợp phạm tội này được mô tả gồm 4 nhóm hành vi:
Thứ nhất là nhóm hành vi thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố;
Thứ hai là nhóm hành vi cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố;
Thứ ba là nhóm hành vi xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của cán bộ, công chức hoặc người khác; chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
Thứ tư là nhóm hành vi tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Các nhóm hành vi thứ nhất, thứ hai, thứ tư và các hành vi chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc nhóm hành vi thứ ba là các hành vi mới được bổ sung trong BLHS năm 2015.
Việc quy định bổ sung các hành vĩ chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc nhóm hành vi thứ ba và nhóm hành vi thứ tư là hoàn toàn hợp lý và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống các hoạt động khủng bố cụ thể trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, việc quy định bổ sung các nhóm hành vi thứ nhất và thứ hai vào khoản 2 của điều luật vẫn chưa thực sự đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh chống tội phạm. Bổ sung này mới chỉ tạo cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi thành lập, hành vi tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố cũng như hành vi trợ giúp tổ chức khủng bố mà chưa tạo ra cơ sở pháp lý đáp ứng được đầy đủ yêu cầu chổng các tổ chức khủng bố và các hành vi liên quan đến các tổ chức khủng bố. Đúng ra, BLHS cần quy định bổ sung tội danh “Thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm” mà trong đó có tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố theo như kinh nghiệm lập pháp chống khủng bố của Cộng hòa liên bang Đức và nhiều nước khác trên thế giới.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt cho trường hợp phạm tội thứ hai của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân có mức phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Khoản 3 của điều luật quy định trường hợp phạm tội thứ ba của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân. Đây là trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vĩ quy định tại khoản 1 của điều luật hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần của cán bộ, công chức hoặc người Việt Nam khác. Theo đó, hành vi khách quan được khoản 3 mô tả là hành vi đe dọa tước đoạt tính mạng người khác, hành vi đe dọa phá hủy tài sản hoặc là hành vi khác uy hiếp tinh thần người khác. Đối tượng của hành vi đe dọa tước đoạt tính mạng và hành vi khác uy hiếp tinh thần là cán bộ, công chức hoặc người Việt Nam khác. Đối tượng của hành vi đe dọa phá hủy tài sản là tài sản của cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc là tài sản của người Việt Nam.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt cho trường họp phạm tội thứ ba có mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Khoản 4 của điều luật quy định trường hợp thứ 4 của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân. Đó là trường hợp khủng bố cá nhân, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hành vi khách quan được khoản 4 của điều luật mô tả gồm 4 nhóm hành vi:
Thứ nhất là nhóm hành vi xâm phạm tính mạng, phá hủy tài sản;
Thứ hai là nhóm hành vi xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của người khác; chiếm giữ, làm hư hại tài sản;
Thứ ba là nhóm hành vi tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
Thứ tư là nhóm hành vi đe dọa tước đoạt tính mạng, phá hủy tài sản hoặc có hành vi khác uy hiếp tĩnh thần của người khác.
Đối tượng của các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, đe dọa tước đoạt tính mạng, uy hiếp tinh thần người khác thuộc các nhóm hành vi thứ nhất, thứ hai và thứ tư nêu trên là người nước ngoài, người của tổ chức nước ngoài hoặc người của tổ chức quốc tế. Theo đó, nạn nhân của các hành vi phạm tội này là người nước ngoài, người thuộc tổ chức nựớc ngoài hoặc người của tổ chức quốc tế.
Đối tượng của các hành vi phá hủy, làm hư hại hoặc chiếm giữ tài sản thuộc nhóm hành vi thứ nhất và thứ hai là tài sản của cá nhân người nước ngoài, của tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế.
Đối tượng của nhóm hành vi thứ ba là hoạt động của mạng vi tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cá nhân người nước ngoài, của tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế.
Khoản 4 của điều luật quy định 3 khung hình phạt cho trường hợp phạm tội thứ tư. Cụ thể:
+ Khung hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định cho nhóm hành vi thứ nhất;
+ Khung hình phạt có mức phạt tù từ 10 năm đến 15 năm được quy định cho nhóm hành vi thứ hai và thứ ba và
+ Khung hình phạt có mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được quy định cho nhóm hành vi thứ tư.
Khoản 5 của điều luật quy định khung hình phạt có mức phạt. tù từ 01 năm đến 05 năm được áp dụng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân. Quy định này là điểm mới của BLHS năm 2015 sửa đổi 2017, thể hiện rõ đường lối xử lý có sự phân hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ ràng giữa trường hợp chuẩn bị phạm tội và trường hợp tội phạm hoàn thành ở tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân.