1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí

Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí là một tội danh mới được bổ sung vào Bộ luật Hình sự. Đây là hành vi của những người được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản dẫn đến sự thất thoát và lãng phí.

Tội danh này nhằm mục đích bảo vệ tài sản Nhà nước và đảm bảo sự trung thực, chính trực trong quản lý, sử dụng tài sản công cộng. Việc bổ sung tội vi phạm này vào BLHS nhằm tăng cường sự nghiêm khắc và rõ ràng trong xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến quản lý tài sản Nhà nước.

Người bị cáo buộc phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hành vi vi phạm này có thể bao gồm việc lạm dụng tài sản, sử dụng tài sản cá nhân cho mục đích riêng, tiêu xài không đúng mục đích, không báo cáo, không kiểm kê tài sản theo quy định, hoặc gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước theo nhiều hình thức khác nhau.

Xử lý nghiêm túc các hành vi vi phạm quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí là cách để đảm bảo sự công bằng, minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài sản công cộng. Điều này cũng giúp ngăn chặn sự lạm dụng, tiêu xài không đúng mục đích và bảo vệ lợi ích của Nhà nước và cộng đồng.

Do đó, việc áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh và công bằng đối với tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí là cần thiết để xây dựng một xã hội công bằng, trật tự và phát triển bền vững.

 

2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí?

Tội phạm liên quan đến việc quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước là một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là trong các cơ quan, tổ chức và đơn vị của Nhà nước. Việc này không chỉ gây tổn thất về tài sản mà còn làm suy yếu chế độ quản lý và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các tổ chức này. Trong bối cảnh này, việc phạm tội có thể xuất phát từ nhiều phía khác nhau, được chia thành các khía cạnh cụ thể để hiểu rõ hơn.

Trước hết, Xét ở một khía cạnh từ phía khách thể: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí là một hành vi phạm tội được xác định trong Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008. Tội phạm này xảy ra trong các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, và tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp (gọi chung là cơ quan, tổ chức, đơn vị). Trong tội phạm này, đối tượng bị xâm hại là tài sản nhà nước tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, bao gồm trụ sở làm việc và tài sản khác gắn liền với đất. Ngoài ra, quyền sử dụng đất liên quan đến đất được sử dụng để xây dựng trụ sở làm việc và cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng là một phần bị xâm phạm trong tội phạm này. Các tài sản khác bao gồm máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc, và các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Tội phạm này xảy ra khi người vi phạm vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được giao. Có nhiều hành vi vi phạm có thể xảy ra, chẳng hạn như sử dụng tài sản nhà nước không đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ, và không hiệu quả, gây lãng phí. Hành vi không thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ tài sản nhà nước theo quy định cũng được coi là một hành vi vi phạm. Ngoài ra, không báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được giao theo quy định của pháp luật cũng được coi là một hành vi vi phạm trong tội phạm này.

Xét ở mặt khách quan của tội phạm này nằm ở việc các hành vi vi phạm quy định về quản lý tài sản Nhà nước thường được thực hiện một cách cố ý, có tính chất lập trường. Có thể thấy rằng việc này không chỉ là do sơ xuất mà thường là kết quả của ý định cố ý từ phía những người có trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản này.

Về mặt chủ thể, chỉ những người được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Điều này thường áp dụng cho những quan chức, lãnh đạo cấp cao trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người vi phạm, cần phải xác định rõ hành vi cụ thể của họ đã vi phạm những quy định nào của Luật quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước. Điều này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của tội phạm và áp đặt hình phạt phù hợp.

 

3. Các khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí

Theo Điều 219 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 (được điều chỉnh bởi Điểm k, Khoản 1 của Điều 2 Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự năm 2017; được điều chỉnh bởi Điểm l, Khoản 2 của Điều 2 Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự năm 2017), tội vi phạm quy định về sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí được quy định như sau:

- Người nào được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:

+ Vì lợi ích cá nhân;

+ Có sự tổ chức;

+ Sử dụng các biện pháp tinh vi, xảo quyệt;

+ Gây thất thoát, lãng phí từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

- Phạm tội gây thất thoát, lãng phí từ 1.000.000.000 đồng trở lên, thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

- Ngoài việc bị kết án tù, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc.

Tóm lại, theo quy định của Điều 219 trong Bộ Luật Hình sự năm 2015 (được bổ sung bởi Điểm k, Khoản 1 của Điều 2 Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự năm 2017 và được sửa đổi bởi Điểm l, Khoản 2 của Điều 2 Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự năm 2017), tội vi phạm quy định về sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí sẽ chịu các hình phạt sau đây:

Hình phạt khung 1: Người nào được giao sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, gây thất thoát, lãng phí trong khoảng từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà vẫn tiếp tục vi phạm, sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ trong khoảng từ 01 năm đến 03 năm hoặc phạt tù trong khoảng từ 01 năm đến 05 năm.

Hình phạt khung 2: Phạm tội sẽ chịu mức án tù từ 03 năm đến 12 năm trong các trường hợp sau:

+ Vì mục đích lợi ích cá nhân;

+ Có sự tổ chức;

+ Sử dụng các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

+ Gây thất thoát, lãng phí trong khoảng từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

Hình phạt khung 3: Phạm tội gây thất thoát, lãng phí từ 1.000.000.000 đồng trở lên sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định trong khoảng từ 01 năm đến 05 năm, hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

Bài viết liên quan: Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước lãng phí, gây thất thoát bị xử lý như thế nào ?

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê về vấn đề: Ngồi xem hay hướng dẫn người khác cách chơi tài xỉu có bị phạt? Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!